Bài viết này nói về:
24 OAI NGHI CỦA NGƯỜI XUẤT GIA
24 OAI NGHI SA DI NI
24 OAI NGHI THI HÓA VIỆT NGỮ
SA-DI VÀ SA-DI NI
Mô Phật cho con hỏi vì sao Sa Di có 24 oai nghi mà Sa Di Ni có 22 oai nghi, về cơ bản là giống nhau, tại sai bên Sa Di có thêm 2 điều, có phải do Nam nữ khác biệt không?
OAI NGHI CỦA SA-DI-NI
Bài này của một vị tỳ-kheo đời Đông Tấn bên Trung Hoa dịch, đã mất tên, vào khoảng năm 400 theo Dương lịch.
Oai nghi của sa-di ni, về căn bản phải giữ đủ những điều như sa-di, nhưng cũng có một số điểm được lưu ý đặc biệt hơn. Vì thế, khi đọc phần này nên đối chiếu với phần Oai nghi của sa-di.
Sa-di ni không được mặc y phục bằng tơ lụa có nhiều màu sắc rực rỡ, chói lọi.
Không được may, mua sắm y phục ấy cho kẻ khác.
Không được nói những lời giễu cợt, ác ý.
Không được chỉ bảo, sai khiến kẻ khác nói lời thô tục.
Không được cùng với những người nữ cư sĩ ngắm nghía hình dáng của nhau để đùa cợt.
Không được ở nơi chỗ vắng vẻ mà trút bỏ y phục, phô bày thân thể.
Không được soi gương mà đánh phấn, vẽ chân mày…
Không được nóng giận nói ra những lời oán rủa.
Không được tư tưởng đến việc giao tiếp cùng nam giới, rồi hỏi người nữ cư sĩ xem việc ấy như thế nào.
Không được ngồi trên thảm lông, nệm gấm.
Không được mang giày da, cũng không được làm ra hoặc mua sắm cho kẻ khác.
Không được tham muốn tiền bạc của cha mẹ ở nhà, hoặc cố tìm cách để người khác phải mang tiền bạc, của cải trao cho mình.
Không được ngồi trên giường của phụ nữ tại gia, mở hòm, tủ của họ mà xem y phục rồi khen chê, bình phẩm tốt xấu.
Từ mười sáu tuổi trở lên, thiếu nữ nào muốn làm sa-di ni, phải có nết na trong sạch, không có tiếng xấu với đời và phải được cha mẹ ưng thuận. Người mắc bệnh vô sinh và các bệnh kín không được thu nhận.
Không được ở đêm chung phòng với một vị tỳ-kheo, cũng không được ngồi chung một chỗ.
Không được cùng tỳ-kheo nhìn ngắm hình thể của nhau mà đùa cợt.
Không được sử dụng mền đắp, y phục của sa-di khi nằm.
Không được nghịch phá đồ đạc, y phục của chúng tăng.
Không được tự tay trao đồ vật cho nam giới. Như có vật cần đưa thì để xuống đất cho người ta lấy là được.
Không được lõa hình tắm chung với hàng phụ nữ tại gia.
Không được một mình đi đến phòng của tăng để hỏi nghĩa kinh.
Không được nói chuyện thế tục.
Không được cười nói, đùa cợt khi tụng đọc kinh điển, không được quay nhìn sang hai bên, không được gục đầu tựa trên tay.
Đi học kinh kệ, phải nhớ năm điều:
1. Phải có một vị ni lớn tuổi cùng đi.
2. Ngồi cách xa thầy chừng sáu thước.
3. Phải quỳ mà hỏi.
4. Chỉ được hỏi về ý nghĩa mà thôi.
5. Còn kinh văn phải thuộc lòng, tự biết.
Đến thăm thầy khi có bệnh, phải nhớ bốn điều này:
1. Có quan hệ thân thuộc nên đến thăm.
2. Nên có ba người cùng đi chung nhau.
3. Ngồi cách giường thầy sáu thước, quỳ mà hỏi thăm sức khỏe thầy.
4. Thăm hỏi xong phải về ngay, không được bàn luận chuyện gì khác.
Nằm ngủ, phải nhớ năm điều này:
1. Nằm xuống liền phải niệm Phật.
2. Nằm nghiêng bên mặt, xếp mình, không được duỗi thẳng chân.
3. Đầu hơi cúi xuống ngực.
4. Che đắp thân thể không được để lộ ra.
5. Không được để tay gần chỗ bất tịnh.
Có việc đến nhà thí chủ, phải nhớ năm điều này:
1. Trước hết phải lễ Phật.
2. Sau đó lễ thầy và chúng tăng.
3. Khi có nữ thí chủ thỉnh mới nên đến.
4. Đến trình với thầy, phải đứng ngay phía trước thầy, cách sáu thước.
5. Đến nhà, chỉ ngồi nơi ghế dành riêng cho mình.
Nếu nghỉ lại ở nhà thí chủ, phải nhớ có năm điều không nên làm:
1. Không được vào phòng riêng của phụ nữ để nói chuyện, cười đùa.
2. Không được đến nhà bếp ngồi ăn uống.
3. Không được nói chuyện riêng với phụ nữ giúp việc trong nhà.
4. Không được một mình đi ra nhà sau.
5. Không được cùng với người khác vào nhà vệ sinh, không được ngồi trên bàn cầu dành cho nam giới.
Vào nhà tắm, phải nhớ năm điều:
1. Không được tắm chung với nữ cư sĩ.
2. Không được tắm chung với người giúp việc nữ. 3. Không được tắm chung với trẻ con.
4. Không được dùng nước của người khác mang đến, phải tự mình xách nước lấy mà dùng.
5. Không được nhìn ngắm hình thể chỗ kín của mình.
Khi dâng hương, phải nhớ năm điều này:
1. Không được ngoái nhìn hai bên.
2. Không được dâng hương một mình với người cư sĩ nam.
3. Không được dâng hương một mình với người giúp việc.
4. Phải đứng ngay ngắn.
5. Không được quay lưng về phía tượng Phật.
Buổi sáng thức dậy phải nhớ năm điều:
1. Phải làm vệ sinh sạch sẽ rồi mới mặc pháp y.
2. Làm lễ tượng Phật.
3. Tiếp đến lễ thầy.
4. Lui lại cách thầy sáu thước mà thưa hỏi vấn an.
5. Sau đó mới được rời đi ra ngoài.
Khi thầy dạy dỗ, phải nhớ năm điều này:
1. Khi hỏi những chỗ không hiểu trong kinh điển, giới luật, thì phải chú ý lắng nghe.
2. Như có bị quở trách thì phải biết hối lỗi, tự trách.
3. Không được che giấu chỗ lỗi lầm.
4. Không được cãi lý theo ý mình.
5. Không được nhìn thầy bằng ánh mắt chẳng lành.
Khi giặt y phải bốn điều này:
1. Chọn chỗ khuất vắng, quỳ xuống mà giặt.
2. Đổ nước dơ nơi chỗ khuất, không được đổ ra nơi có người đi lại.
3. Phải chờ cho khô, vừa khô nên lấy vào ngay.
4. Không được để rơi xuống đất.
Đi trên đường phải nhớ năm điều này:
1. Nên có ba người cùng đi.
2. Nên đi với một vị tỳ-kheo ni lớn tuổi.
3. Hoặc cùng đi với cư sĩ nữ.
4. Phải nhìn thẳng phía trước chừng sáu thước.
5. Phải mặc pháp y.
Sa Di Ni Luật Nghi Yếu Lược
(Bản Yếu Lược Về Giới Luật Và Uy Nghi Của Sa Di Ni)
Hoa sơn, Long xương tự, tư Luật học sa môn Độc thể tập tập
(Núi Bảo hoa, chùa Long xương, Sa môn chủ về Luật học, tên Độc thể, biên tập)
(1) Phạn ngữ sa di ni, thử phiên tức từ nữ, vị tức ác hành từ, tức thế nhiễm nhi từ tế chúng sanh dã. Diệc vân cần sách nữ, diệc vân cầu tịch nữ. Luật nghi giả, thập giới luật chư uy nghi dã.
Phạn tự “sa di ni”, xứ này dịch nghĩa tức từ nữ, là đình chỉ việc ác, thi hành từ bi: đình chỉ những sự ô nhiễm của thế tục mà từ bi tế độ chúng sanh. Cũng dịch cần sách nữ, cũng dịch cầu tịch nữ. Còn “luật nghi” là mười giới luật và các uy nghi.
Thượng Thiên: Giới Luật Môn
(Chương Trước: Phần Giới Luật)
(2) Sa di ni giới văn trung, Phật ngôn, thập lục dĩ thượng ưng tác sa di ni. Tố vô hà uế, trinh lương hoàn cụ, vô sở hủy nhục, phụ mẫu kiến thính, nãi đắc vi đạo. Tố bất trinh lương, bất ưng vi đạo. Thạch nhân nặc bịnh, bất ưng vi đạo. Dĩ nữ nhân tứ thái nan bảo, duyệt tại tu du phục sanh ác ý, thí như thủy bào nhất khởi nhất diệt, vô hữu thường định, tu thiện quán sát, nãi khả độ ni.
Trong Sa di ni giới văn, Phật dạy, 16 tuổi sắp lên mới nên làm sa di ni. Vốn không tỳ vết dơ bẩn, trinh tiết và lương thiện thì nguyên vẹn đầy đủ, không bị mỉa mai sỉ nhục, và cha mẹ thuận cho, mới được xuất gia. Vốn không trinh tiết lương thiện, không nên xuất gia. Gái đá, hay bị nhiễm trùng không thể chữa lành, không nên xuất gia. Vì phụ nữ thì cái thói bốc đồng làm cho tâm tính khó giữ duy nhất, thích thú chốc lát, ý xấu lại nổi lên, y như bong bóng nước cái nổi cái mất, không có nhất định, nên phải khéo quan sát mới có thể độ cho ni.
(3) Hựu Phật quan kiến nhân gian, thượng chí nhị thập bát thiên, hạ chí thập bát địa ngục, giai khổ vô lạc, cố kiết giới dĩ huấn hậu sanh. Do thị tín nữ thế phát xuất gia, tiên thọ thập chi cấm giới, danh pháp đồng sa di ni; thứ dữ thị tuế nghiệm học lục pháp, vi thức xoa ma na. Sĩ tuế mãn, học tịnh, kham nhập Á tăng số giả, tại nhị bộ tăng trung khất thọ tỷ kheo ni giới.
Lại nữa, Phật xét thấy loài người, và trên suốt 28 tầng trời, dưới đến 18 địa ngục, toàn là khổ sở, không có yên vui, nên qui định giới luật để huấn thị hậu sinh. Do đó, tín nữ thế phát xuất gia thì trước thọ 10 chi cấm giới, gọi là pháp đồng sa di ni ; kế đó, cho 2 năm để xét nghiệm và học tập 6 pháp, gọi là thức xoa ma na. Chờ số tuổi đầy đủ, sự học trong sáng, có thể đứng vào hàng ngũ Á tăng, thì ở trong 2 bộ đại tăng mà xin thọ tỷ kheo ni giới.
(4) Tư thành chánh chế. Tý lai ni luật thất tông, thời phong hạ mại, nhi sa di ni bổn sở thọ giới vị am. Kiêu mạn giả đa khinh nhị bộ đại tăng, ngu muội giả toàn thất chư môn tế hạnh, dục quang đạo hóa dĩ nhiếp ni đồ, nan khả ký dã. Nhân thể thập giới lược minh chế chỉ, tỷ mông học tri sở hướng phương.
Trên đây thật là sự qui định chính thức của Phật. Gần đây, giới luật ni bộ lạc mất tôn chỉ, cái thói thời đại đi xuống quá xa, đến nỗi gọi là sa di ni mà đối với giới luật của mình lãnh thọ vẫn chưa am tường. Rồi kẻ kiêu mạn thì phần nhiều khinh thường 2 bộ đại tăngngười ngu tối thì hoàn toàn đánh mất các môn tế hạnh, nên muốn làm rực rỡ nền pháp hóa để tiếp độ ni đồ, thì cũng thật là điều khó thểmong mỏi. Nhân đó, tôi chọn lấy 10 giới mà tóm tắt thuyết minh những sự chế chỉ, để làm cho người sơ học biết phương trời mà họ phải hướng tới.
(5) Hảo tâm xuất gia giả, thiết ý tuân hành, thận vật vi phạm. Nhiên hậu cận vi thức xoa ma na, tỷ kheo ni giới chi giai thê, viễn vi bồ tát giới chi căn bản, nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, thứ cơ thành tựu thánh đạo, bất phụ sơ niệm xuất gia chi chí hỷ. Nhược nhạo quảng lãm giả, tự đương tường duyệt Luật tạng toàn điển. Dĩ hạ thập giới điều chương, y Luật tạng Tùy tự hàm bản văn lục xuất, tinh vô tăng giảm.
Những người xuất gia với tâm chí tốt, hãy thiết ý tuân hành, thận trọng đừng để vi phạm. Như vậy mới gần thì làm thềm làm thang cho thức xoa ma na và tỷ kheo ni giới, xa thì làm rễ làm gốc cho bồ tát giới. Rồi nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, ngõ hầu thành tựu thánh đạo, không phụ chí hướng lúc mới xuấtgia. Nếu ai thích xem cho rộng thì nên tự cứu xét tinh tường toàn bộ [các sách nói về Sa di ni] trong Luật tạng. Điều chương 10 giới dưới đây là y theo bản văn trong hộp chữ Tùy của Luật tạng mà sao chép ra, không thêm bớt gì cả.
Đệ Nhất: Sát Giới
(Thứ Nhất: Giới Sát Sanh)
(6) Sa di ni sơ giới bất đắc sát sanh, từ mẫn quần sanh như phụ mẫu niệm tử, da ai nhuyễn động do như xích tử. Hà vị bất sát? Hộ thân khẩu ý. Thân bất sát nhân vật, kỳ hành suyễn tức chi loại, nhi bất thủ vi, diệc bất giáo nhân, kiến sát bất thực, văn sát bất thực, nghi sát bất thực, vị ngã sát bất thực. Khẩu bất thuyết ngôn đương sát, đương hại, báo oán; diệc bất đắc ngôn tử khoái, sát khoái, mỗ phì, mỗ sấu, mỗ nhục đa hảo, mỗ nhục thiểu dã. Ý diệc bất niệm, đương hữu sở tặc sát ư mỗ khoái hồ, mỗ súc phì, mỗ sấu; ai chư chúng sanh như kỷ cốt tủy, như phụ như mẫu, như tử như thân, đẳng vô sai đặc. Phổ đẳng nhất tâm, thường chí đại thừa, thị vi sa di ni thỉ học giới dã.
Giới của sa di ni là không được sát sanh, mà từ mẫn chúng sanh như cha mẹ thương con, thương đến cả cái loài nhuyễn động, coi chúng y như con đỏ. Không sát sanh là thế nào? Là giữ thân miệng ý. Thân thì không giết người, vật, cho đến loại bò ngoằn ngoèo, thở bức tức, bằng cách không tự tay giết, không bảo người giết, thấy giết không ăn, nghe giết không ăn, nghi giết không ăn, biết giết vì mình lại càng không ăn. Miệng thì không nói phải giết, phải hại, trả thù, cũng không được nói chết khoái, giết khoái, con này mập, con kia gầy, thịt này nhiều, thịt kia ít. Ý cũng không nghĩ, phải chi có giặc giết nó thì khoái biết mấy; con này mập, con kia gầy; thương mọi chúng sanh như xương tủy của mình, như cha mẹ, như con cái, như bản thân, không khác chi cả. Nhất tâm thương xót chúng sanh một cách phổ cập, bình đẳng, và thường đặt chí nguyện vào đại thừa, đó là giới phải học tập đầu tiên của sa di ni.
Đệ Nhị: Đạo Giới
(Thứ Hai: Giới Trộm Cướp)
(7) Sa di ni giới bất đắc đạo thiết. Nhất tiền dĩ thượng, thảo diệp mao mễ, bất đắc thủ dã. Chủ bất thủ dữ bất đắc thủ thủ, khẩu bất ngôn thủ, tâm bất niệm thủ. Mục bất ái sắc, nhĩ bất ái thanh, tỷ bất đạo hương, thiệt bất thâu vị, thân bất tham y, tâm bất thiết dục. Lục tình vô trước, thường lập quyền tuệ, tắc viết bất đạo, thị vi sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là không được trộm cướp. Một tiền sắp lên, một lá cỏ, một hạt gạo nhỏ, cũng không được lấy. Người chủ đồ vật không tự tay đưa cho thì thân không lấy đồ vật ấy bằng tay mình, miệng không nói đến sự lấy, ý không nghĩ đến sự lấy. Mắt không ham sắc, tai không mê tiếng, mũi không trộm hơi, lưỡi không cắp mùi, thân không ham áo, ý không cuỗm dục. Sáu căn không đam mê, bằng cách thường đứng trong tuệ giác phương tiện, thì gọi là không trộm cướp, đó là giới của sa di ni.
Đệ Tam: Dâm Giới
(Thứ ba: Giới Dâm Dục)
(8) Sa di ni bất đắc dâm dật. Hà vị bất dâm? Nhất tâm thanh khiết. Thân bất dâm dật, khẩu bất thuyết dâm, tâm bất niệm dâm, chấp kỷ tiên minh, như hư không phong vô sở ỷ trước. Thân bất hành dâm, mục bất dâm thị, nhĩ bất dâm thính, tỷ bất dâm hương, khẩu bất dâm ngôn, tâm bất tồn dục. Quán thân tứ đại bổn vô sở hữu, kế địa thủy hỏa phong vô ngã, vô nhân, vô thọ, vô mạng, hà sở dâm dật, hà sở trước hồ? Chí không, vô tướng nguyện, thị vi sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là không được dâm dật. Không dâm dật là thế nào? Là nhất tâm thanh khiết. Thân không làm dâm dật, miệng không nói dâm dật, ý không nghĩ dâm dật, giữ mình tươi sáng, như gió lướt không gian không vướng mắc đâu cả. Mắt không nhìn sắc dâm, tai không nghe tiếng dâm, mũi không ngửi hơi dâm, lưỡi không nói lời dâm, thân không làm việc dâm, ý không nghĩ điều dâm. Quán thân là tứ đại, vốn không thật có, lại xét chính tứ đại ấy, tức đất nước lửa gió, cũng không phải bản ngã, không phải sinh thể, không phải tồn tại, không phải sinh mạng, vậy dâm dật cái gì, vướng mắc vào đâu? Nên chí nguyện sống bằng ba giải thoát môn là không, vô tướng, vô nguyện, đó là giới của sa di ni.
Đệ Tứ: Vọng Ngữ Giới
(Thứ Tư: Giới Nói Dối)
(9) Sa di ni giới bất đắc lưỡng thiệt, ác ngôn. Ngôn ngữ an tường. Bất kiến mạc ngôn kiến, bất văn mạc ngôn văn, kiến ác bất truyền, văn ác bất tuyên. Ác ngôn trực tỵ thường hành tứ đẳng. Vô hữu phi ngôn, ngôn triếp thuyết đạo. Bất đắc luận thuyết tục sự, bất giảng vương giả thần lại tặc sự. Thường thán kinh pháp, bồ tát chánh giới, chí vu đại thừa, bất vi tiểu học. Hành tứ đẳng tâm, thị vi sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là không được nói hai lưỡi, nói thô ác. Mà nói năng phải từ hòa, minh bạch. Không thấy đừng nói thấy, không nghe đừng nói nghe, thấy việc xấu thì không loan truyền, nghe điều bậy cũng không tuyên bố. Lời ác thì tránh liền, thường làm 4 vô lượng tâm. Không nói bậy, nói là nói về đạo pháp mãi. Không được nói việc thế tục, không bàn việc ngụy tặc của vua quan. Thường tán thán kinh pháp và giới pháp chính của bồ tát, chí nguyện ở đại thừa chứ không làm theo học lý nhỏ hẹp. Với chí nguyện ấy mà làm 4 vô lượng tâm, đó là giới của sa di ni.
Đệ Ngũ: Bất Ẫm Tửu Giới
(Thứ Năm: Giới Uống Rượu)
(10) Sa di ni giới bất đắc ẩm tửu. Bất đắc thị tửu, bất đắc thường tửu. Tửu hữu tam thập lục thất. Thất đạo phá gia, nguy thân táng mạng, giai tất do chi. Khiên đông dẫn tây, trì nam trước bắc; bất năng phúng kinh, bất kính tam tôn; khinh dị sư hữu, bất hiếu phụ mẫu; tâm bế ý tắc, thế thế ngu si; bất trị đại đạo, kỳ tâm vô thức: cố bất ẩm tửu. Dục ly ngũ ấm, ngũ dục, ngũ cái, đắc ngũ thần thông, đắc độ ngũ đạo, thị vi sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là không được uống rượu. Bằng cách không được ham rượu, không được nếm rượu. Rượu có ba mươi sáu lỗi. Lỗi đạo, phá nhà, nguy thân, mất mạng, hết thảy đều do rượu. Kéo bên đông, dắt bên tây, nắm bên nam, vướng bên bắc. Không thể tụng kinh, không kính Tam bảo; khinh dễ thầy bạn, bất hiếu mẹ cha; tâm bít, ý lấp, đời đời ngu si; không gặp đạo lớn, tâm không trí thức: nên đừng uống rượu. Muốn thoát ngũ ấm, ngũ dục và ngũ cái, được chứng ngũ thông, được vượt ngũ đạo, đó là giới của sa di ni.
Đệ Lục: Bất Trước Hương Hoa Anh Lạc Giới
(Thứ Sáu: Giới Mang Hương, Hoa, Ngọc)
(11) Sa di ni giới bất đắc trì hương hoa tự huân sức; y bị lý lũ bất đắc ngũ sắc; bất đắc dĩ chúng bảo tự anh lạc; bất đắc trước cẩm tú lăng la ỷ hộc. Bất đắc ỷ thị. Đương trước thô phục, thanh hắc mộc lan, cập nê hoàn lý y, đê đầu nhi hành. Dục trừ lục suy, dĩ giới vi hương, cầu tụng thâm pháp dĩ vi chân bảo, tam thập nhị tướng dĩ vi anh lạc, đắc thực chúng hảo dĩ vi bị phục. Nguyện lục thần thông vô ngại, lục độ đạo nhân, thị vi sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là không được cầm nắm hương và hoa để xông ủ và trang sức cho mình; áo chăn giày dép không được có năm màu sắc chính; không được lấy các thứ ngọc làm chuỗi ngọc cho mình; không được mặc gấm, gấm thêu năm màu, lụa mỏng có hoa, là dệt bằng tơ mỏng, the lụa có bông hoa, và sa trun. Không được nhìn phục sức y như the lụa có bông hoa. Phải mặc pháp phục bằng vải thô, với màu xanh, đen, mộc lan, và mặc áo trong nê hoàn, cúi đầu mà đi. Muốn trừ lục suy thì phải lấy giới pháp làm hương thơm, cầu học chánh pháp sâu xa làm ngọc thật, lấy ba mươi hai tướng tốt làm chuỗi ngọc, lấy tám mươi tướng phụ đã được bởi gieo trồng thiện căn mà làm đồ khoác đồ mặc. Nguyện sáu thần thông tự tại vô ngại, sáu ba la mật dẫn dắt mọi người, đó là giới của sa di ni.
Đệ Thất Bất Tọa Cao Quảng Đại Sàng Giới
(Thứ Bảy: Giới Ngồi Giường Cao, Lớn)
(12) Sa di ni giới bất đắc tọa kim ngân cao sàng, ỷ tú cẩm bị, chúng bảo uyển diên. Bất đắc niệm chi. Bất đắc giáo cầu sách hảo sàng tháp tịch, ngũ sắc họa phiến, thượng hảo tiêu phất. Bất đắc trước tý xuyến chỉ hoàn. Trực tín, giới, tàm, quí, thí, bác văn, trí tuệ. Nhất tâm tinh chuyên, thường cầu tam muội dĩ vi sàng tháp ; tâm bất động diêu, chúng tuệ tự nhiên, dĩ vi tọa cụ. Thất giác bất chuyển, chí vu đạo tâm, thị vi sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là không được ngồi giường ghế cao làm bằng vàng bạc, dùng chăn gấm có bông hoa và đủ cả năm màu, dùng áo lụa đỏ hồng, và tua dải trước hay sau mão mà tất cả đều được đính các thứ ngọc. Không được nghĩ đến những thứ ấy. Không được bảo tìm kiếm giường, giường vừa mà dài, và chiếu, tất cả đều thuộc loại tốt; tìm kiếm cái quạt vẽ đủ năm màu sắc; cái phất bằng lông đuôi chim thượng hảo hạng. Không được mang vòng cánh tay và nhẫn ngón tay. Chánh tín, giữ giới, tự hổ, thẹn người, đem cho, nghe nhiều, lý giải. Nhất tâm tinh chuyên, thường cầu tam muội lấy làm giường phản; tâm không dao động, tuệ giác tự nhiên lấy làm đồ ngồi. Bảy giác chi không dao động, chí nguyện ở bồ đề tâm, đó là giới của sa di ni.
Đệ Bát: Bất Ca Vũ Âm Nhạc Giới
(Thứ Tám: Giới Hát Múa Tấu Nhạc)
(13) Sa di ni giới bất đắc thính ca vũ âm nhạc thanh, phách thủ, cổ tiết. Bất đắc tự vi, diệc bất giáo nhân. Thường tự tu thân, thuận hành chánh pháp, bất vi tà hạnh. Nhất tâm qui Phật, tụng kinh, hành chánh, dĩ vi pháp lạc, bất vi tục lạc. Thính kinh tư duy, thâm nhập đại nghĩa. Tự bất hữu tật, bất đắc thừa xa mã tượng. Đương niệm khinh cử bát bất tư nghị thần thông chi đạt, dĩ vi xa thừa độ thoát bát nạn, thị vi sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là không được nghe cái tiếng hát múa, tấu nhạc, vỗ tay, đánh nhịp. Không được tự làm, cũng không bảo người. Thường tự tu thân, thuận hành chánh pháp, không theo tà hạnh. Nhất tâm mà qui y Phật, tụng kinh, thực hành tám chánh đạo, và lấy đó làm cái vui Phật pháp, không theo cái vui thế tục. Cái vui Phật pháp như vậy là do nghe kinh pháp thì tư duy, vào sâu nghĩa lý cao lớn. Chính mình không bịnh thì không được cỡi xe, ngựa, voi. Nên nghĩ đến sự cử động nhẹ nhàng, tức sự thông suốt của tám thứ thần thông bất khả tư nghị, lấy đó làm xe cộ để vượt thoát tám nạn, đó là giới của sa di ni.
Đệ Cửu: Bất Tróc Trì Kim Bảo Giới
(Thứ Chín: Giới Nắm Giữ Vàng Ngọc)
(14) Sa di ni giới bất đắc tích tụ trân bảo, bất đắc thủ thủ, bất đắc giáo nhân. Thường tự chuyên tinh dĩ đạo vi bảo, dĩ kinh vi thượng, dĩ nghĩa vi diệu, giải không vô tướng vô nguyện vi bổn, chí ư tam thoát, bất cầu tham dục. Dục ly cửu não, trú đạo thậm cửu, vô cùng vô cực, vô hữu biên tế, diệc vô sở trú, thị vi sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là không được chứa dồn trân bảo, bằng cách không được tự tay mình lấy, không được bảo người lấy. Thường tự tinh chuyên, lấy pháp làm ngọc quí, lấy kinh làm cao tột, lấy nghĩa làm nhiệm mầu, lấy sự lý giải không vô tướng vô nguyện làm căn bản, đạt đến ba cửa giải thoát ấy chứ không thích tham dục. Muốn rời xa chín thứ bức não thì trú ở trong Phật pháp cho lâu, không cùng không tột, không có giới hạn, cũng không đứng lại, đó là giới của sa di ni.
Đệ Thập: Bất Phi Thời Thực Giới
(Thứ Mười: Giới Ăn Lúc Phi Thời)
(15) Sa di ni giới thực bất thất thời. Thường dĩ thời thực, bất đắc thất độ. Quá nhật trung hậu, bất đắc phục thực. Tuy hữu cam mỹ vô cực chi vị, chung bất phục thực, diệc bất giáo nhân phạm, tâm diệc bất niệm. Giả sử vô thượng tự nhiên thực lai, diệc bất đắc thực dã. Nhược trưởng giả, quốc vương, quá nhật trung hậu, thí diệc bất thực. Chung tử bất phạm. Thường tư thiền định; nhất thế ẩm thực, tuy hữu sở thực, tài tự chi mạng. Dục linh nhất thế giải thâm viễn nguyện, đắc thập chủng lực dĩ vi ẩm thực, thị vi sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là ăn không trái giờ. Thường ăn đúng giờ, không được trái chừng đỗi. Sau lúc giữa ngày, không được ăn nữa. Dẫu có cái vị ngọt ngon vô cùng cũng quyết định không ăn lại, không bảo người ăn, tâm cũng không nghĩ đến. Giả sử có thức ăn tự nhiên và tột bực, cũng không được ăn. Trưởng giả hay quốc vương, sau lúc giữa ngày, cúng cho cũng không ăn. Trọn đời đến chết, không vi phạm giới này. Thường tư duy thiền định; còn mọi thức uống ăn, dầu dùng đến cũng chỉ đủ để giữ mạng sống mà thôi. Là muốn làm cho mọi người thấu hiểu chí nguyện sâu xa, thực hiện mười lực để làm thức uống ăn, đó là giới của sa di ni.
Hạ Thiên: Uy Nghi Môn
(Chương Sau: Phần Uy Nghi)
(16) Phật chế, ni chúng luật nghiêm đại tăng, do kỳ chánh pháp hệ tăng giảm cố. Tường khảo thánh điển, kỳ chứ tự minh. Nhược sa di ni tự bất tri ưng sở thi hành, bất hứa cận viên, dĩ đại tỷ kheo ni sự cánh nan tác cố. Tu linh thục học tri dĩ, nãi hứa thọ cụ. Như bất tri, nhi tức vị thọ cụ giới giả, tắc vị Phật pháp dị hành, Á tăng dị tác. Thị cố sa di ni ưng tiên sùng huấn.
Phật qui định, ni chúng thì giới luật càng phải nghiêm như đại tăng, lý do là vì chánh pháp của Phật liên hệ đến họ mà tăng giảm. Xét rõ thánh điển, sẽ thấy sự qui định ấy tự thuyết minh như vậy. Đến như sa di ni mà tự họ không biết việc họ phải làm, thì không cho lãnh thọ giới pháp cận viên, vì việc đại tỷ kheo ni lại càng khó làm. Phải bảo họ học thuộc, thấu hiểu đã, mới cho lãnh thọ giới pháp cụ túc. Như họ không thấu hiểu mà vẫn tức thì truyền thọ cho họ giới pháp cụ túc, thì người ta bảo Phật pháp dễ tu, Á tăng dễ làm. Vì lý do ấy, sa di ni trước hết phải tôn trọng sự huấn thị trên đây.
(17) Dĩ hạ điều tắc, ư Đại ái đạo kinh, Sa di ni giới văn, cập Đệ nhị phần tỷ kheo ni tùy luật uy nghi trung tiết xuất. Hựu Vân thê Sa di yếu lược nội, phàm sa di ni khả thông dụng giả, diệc thể tập chi. Lương dĩ mạt pháp ni luân tình đa giải đãi, văn phồn tắc yểm, tịnh khủng văn tự sanh thiển, do thị san phồn toát yếu, nhưng phân loại tụ dĩ tiện độc học. Gian hữu vị bị, tùng nghĩa bổ nhâểp nhất nhị. Kỳ nhạo quảng lãm giả, tự đương kiểm duyệt toàn thư.
Những điều tắc dưới đây, từ trong kinh Đại ái đạo, văn Sa di ni giới, và tùy luật uy nghi của Phần thứ hai nói về tỷ kheo ni, tỉa bớt mà rút ra. Thêm nữa, trong sách Sa di luật nghi yếu lược của ngài Vân thê, phàm điều gì sa di ni có thể thông dụng thì cũng lượm lặt mà tập hợp. Vì lẽ ni chúng thời kỳ mạt pháp lòng lắm giải đãi, nghe nhiều thì chán, lại sợ văn tự sống sít, do đó, tôi tước bớt phồn toái mà tóm lấy cốt yếu, nhưng vẫn phân loại để tiện cho việc đọc và học. Tựu trung, có chỗ nào chưa đủ, tôi theo ý nghĩa mà phụ thêm một vài điều. Ai thích xem cho rộng thì nên tự cứu xét toàn văn các sách [trên đây].
Kính Tam Bảo Đệ Nhất
(Thứ 1, Kính Tam Bảo)
(18) Đương kính Phật, chí tâm vô tà, trì đầu não trước địa, thường tự sám hối túc thế tội ác. Thường kính Pháp, tâm tồn ư đạo, từ hiếu ư kinh. Thường kính Tăng, tâm bình bất phế, chí thành hữu tín * Bất đắc nhân tiểu sự sân xả Tam bảo * Bất đắc trì Phật tượng chí đại tiểu tiện xứ. Bất đắc trước bất tịnh lý nhập Phật điện cập Tăng tháp trung * Thỉ ư xuất gia thọ giới, tận kỳ chung thân thọ mạng, thường đương thời khắc hệ ức Tam bảo *
Phải thường kính Phật, hết lòng mà không theo ai, đem đầu não đặt sát đất để thường tự sám hối tội ác đời trước. Thường kính Pháp, tâm dồn nơi đạo, từ hiếu với kinh. Thường kính Tăng, lòng bình tĩnh, không từ bỏ, chí thành tin tưởng * Không được nhân việc nhỏ mà giận bỏ Tam bảo * Không được mang tượng Phật đến chỗ đại tiểu tiện. Không được mang giày dép dơ bẩn vào trong điện Phật và tháp Tăng * Bắt đầu từ lúc xuất gia thọ giới, cuối cùng đến lúc kết thúc đời sống, giờ khắc nào cũng thường xuyên tập trung sự nghĩ nhớ lại nơi Tam bảo *
(19) Triêu mộ lễ Phật phát nguyện, nguyện tại tại sanh xứ cụ trượng phu tướng, đồng chân xuất gia, tức năng thân cận Tam bảo, cúng dường thừa sự. Ư cận trú nữ tịnh đàn việt tiền, ưng đương tán thán Tam bảo công đức, sanh tăng nhân tín * Phàm trước nhất y, xan nhất thực, ẩm nhất tương, thường bất vong Phật ân; trước tân y lý thời tiên đương lễ Phật, thọ ẩm thực thời tiên đương cúng Phật, hằng tồn tàm quí, khởi tri trúc niệm.
Sớm tối lạy Phật phát nguyện, nguyện sanh ra ở đâu cũng đủ tướng trượng phu, đồng chân xuất gia, liền biết thân cận Tam bảo mà cúng dường phụng sự. Trước cận trú nữ và đàn việt, phải tán thán công đức của Tam bảo, làm phát sanh và tăng thêm tín tâm cho họ * Mặc một cái áo, ăn một bữa cơm, uống một chén nước, đều luôn luôn không quên ơn Phật ; khi mang áo giày mới phải lạy Phật trước, lúc hưởng thụ uống ăn phải cúng Phật trước, thường hổ thẹn mà khởi niệm tri túc.
Kính Đại Sa Môn Đệ Nhị
(Thứ 2, Kính Đại Sa Môn)
(20) Bất đắc hoán nhị bộ đại tăng tự * Bất đắc đạo thính nhị bộ đại tăng thuyết giới * Bất đắc chuyển hành thuyết nhị bộ đại tăng quá * Bất đắc kiến nhị bộ đại tăng quá bất khởi, trừ độc kinh thời, bịnh thời, thế phát thời, phạn thời, tác chúng sự thời * Bất đắc cố tác dị ngữ xúc não nhị bộ đại tăng. Bất đắc vô căn sân báng nhị bộ đại tăng *
Không được gọi tên chữ của đại tăng hai bộ * Không được lén nghe đại tăng hai bộ thuyết giới * Không được nói chuyền lầm lỡ của đại tăng hai bộ * Không được thấy đại tăng hai bộ đi qua mà không đứng dậy, trừ lúc đọc kinh, lúc bịnh, lúc cắt tóc, lúc ăn cơm, lúc làm việc tăng chúng * Không được cố nói lời nói khác lạ để xúc não đại tăng hai bộ. Không được vì tức giận mà phỉ báng vô căn cứ đối với đại tăng hai bộ *
(21) Bất đắc ư nhị bộ đại tăng trung khiêu toa bỉ thử. Bất đắc cố não nhị bộ đại tăng, giả vấn kinh luật * Bất đắc mạ lị nhị bộ đại tăng. Bất đắc ư nhị bộ đại tăng tiền hành. Bất đắc khinh vũ nhị bộ đại tăng, cố ý ư tiền hý tiếu, hiệu kỳ ngữ ngôn hình tướng hành bộ. Bất đắc tứ bình xứ, kiến nhị bộ đại tăng quá chỉ bối. Hành thời, nhược phùng nhị bộ đại tăng, đương hạ đạo đê thủ bàng lập, cung nhượng khứ dĩ nhiên hậu phương hành.
Không được đối với đại tăng hai bộ mà khiêu khích xúi dục bên kia bên này. Không được cố làm phiền não đại tăng hai bộ bằng cách làm bộ hỏi kinh hỏi luật * Không được mắng chửi đại tăng hai bộ. Không được đi trước mặt đại tăng hai bộ. Không được khinh lờn đại tăng hai bộ, cố ý giỡn cười trước mặt, nhái giọng nói, hình dáng và bước đi của các ngài. Không được rình chỗ khuất để nhìn đại tăng hai bộ đi qua mà chỉ trỏ sau lưng. Khi đi, nếu gặp đại tăng hai bộ thì phải ở chỗ thấp, cúi đầu, đứng một bên, kính nhường các ngài đi rồi mới đi.
Sự Sư Đệ Tam
(Thứ 3, Thờ Thầy)
(22) Thị hòa thượng a xà lê như thị Phật * Đương kính ư sư, thường phụ cận chi, như pháp luật hành. Đương như sư giáo, thường ưng hòa thuận * Thường đương tảo khởi, vật hậu sư khởi; tự cảnh kỳ tâm, vật linh sư hô. Tảo khởi thời, đương tiên thanh tịnh, trước pháp y lễ Phật, Pháp, khước lễ sư. Dục nhập hộ, tiên đương tam đàn chỉ. Lễ sư thời, khứ lục xích, vấn tấn, khước hành xuất hộ. Sư tọa thiền bất ưng tác lễ, sư kinh hành bất ưng tác lễ, sư thọ thực, sư sơ xỉ, sư tháo dục, sư thụy tức đẳng, bất ưng tác lễ. Dục lễ bái, nhược sư chỉ chi, nghi thuận mạng, vật bái. Sư bế hộ, bất ưng hộ ngoại tác lễ; dục nhập hộ tác lễ, ưng đàn chỉ tam biến, sư bất ứng, ưng khứ *
Chiêm ngưỡng hòa thượng, xà lê, như chiêm ngưỡng Phật * Phải kính thầy, thường gần gũi thầy để hành trì đúng pháp đúng luật. Phải giữ đúng huấn dụ của thầy, với sự kính thuận thường xuyên * Thường nên dậy sớm, đừng dậy sau thầy; tự cảnh giác tâm mình, đừng để thầy phải gọi dậy. Sáng sớm, khi thức dậy, phải trước hết súc miệng và gột rửa sạch sẽ, mặc pháp y lạy Phật lạy Pháp rồi lui ra lạy thầy. Muốn vào cửa, trước hết nên đàn chỉ ba lần. Khi lạy thầy thì lạy cách sáu thước xưa, hỏi thăm sức khỏe rồi đi lui mà ra cửa. Thầy ngồi thiền không nên lạy, thầy kinh hành không nên lạy, thầy thọ thực, thầy đánh răng, thầy rửa tắm, thầy ngủ nghỉ vân vân, không nên lạy. Muốn lạy mà thầy ngăn cản thì nên thuận theo mạng lịnh của thầy, đừng lạy. Thầy đóng cửa, không nên ở ngoài cửa mà lạy; muốn vào cửa mà lạy thì phải đàn chỉ ba lần, thầy không trả lời thì nên đi *
(23) Nhược sử xuất bất tịnh khí, bất đắc thóa, bất đắc sân nhuế * Đương thành tín ư sư, tâm trực hữu thật. Từ hiếu ư sư, tâm tồn tả hữu, bất khứ thực tức * Nhược hành quốc trung kiến quái dị chi sự, đương khởi ngữ sư, vấn kỳ biến dị. Tùng sư thọ kinh, đương đoan tâm chí thật, thân tâm khẩu ý vô sai đặc như mao phát * Sư thiết sử hành sở chí, đương tật khứ tật hoàn; thiết hữu nhân vấn, sa di ni, nhữ sư tại phủ, đương mặc nhiên trực khứ, bất đắc cọng tương ứng tri * Thiết hữu quá ác, tầm đương hướng sư thú quá, ngôn dĩ vô trạng * Nhất thế đương tín hướng ư sư; nhược nhân thuyết sư quá, tức đương ha chỉ * Trì sư ẩm thực, giai đương lưỡng thủ bổng ; thực tất, liễm khí đương từ từ * Thị sư, bất đắc đối diện lập, bất đắc cao xứ lập, bất đắc thái viễn lập; đương linh sư tiểu ngữ đắc văn, bất phí tôn lực *
Nếu bảo đổ đồ bất tịnh thì không nên nhổ nước miếng, không nên giận tức * Phải chân thành đối với thầy, lòng ngay thẳng, chắc thật. Hãy từ hiếu với thầy, quấn quýt bên thầy, không rời bữa ăn giấc nghỉ * Đi trong quốc gia, thấy sự quái lạ thì nên trình bạch với thầy, hỏi thầy sự quái lạ ấy. Theo thầy học kinh, phải nghiêm chỉnh tâm trí, cùng tột chân thật, thân tâm miệng ý không làm khác đi chút nào * Thầy bảo đi đến chỗ nào thì nên đi mau về mau; nếu có ai hỏi, sa di ni, thầy của cô còn không, thì nên yên lặng đi thẳng, không được trả lời cho họ biết * Giả sử có tội ác, thì phải liền liền đến thầy thú tội, nói ra rồi không còn tội trạng nữa * Hoàn toàn tin tưởng nơi thầy; nếu ai nói thầy có lỗi thì nên trách liền cho họ thôi đi * Cầm đồ uống đồ ăn của thầy đều nên bưng hai tay. Ăn rồi, dọn đồ thì phải từ từ * Hầu thầy, không được đứng đối diện, không được đứng chỗ cao, không được đứng quá xa; phải đứng sao để thầy nói nhỏ mình nghe được, khỏi phí sức thầy *
(24) Nhược thỉnh vấn Phật pháp, đương chỉnh y lễ bái, hiệp chưởng đế thính, tư duy thâm nhập. Nhược vấn gia thường sự, bất tu lễ bái, đãn đoan lập sư trắc, cứ thật thân bạch. Sư nhược thân tâm quyện, giáo khứ ưng khứ, bất đắc tâm tình bất hỷ, hiện ư nhan sắc * Bất đắc hý tọa sư tòa, cập ngọa sư sàng, trước sư y mạo đẳng * Sự tật bịnh, thỉ chung liệu lý, phòng thất bị nhục, dược nhĩ chúc thực đẳng, nhất nhất dụng tâm điều trị * Trì y, thọ lý, tẩy nhiễm, hồng sái đẳng, cụ ư Luật trung, tư bất phiền lục *
Nếu xin hỏi Phật pháp thì phải sửa y, lễ bái, chắp tay nghe kỹ suy nghĩ vào sâu. Nếu hỏi việc thường của trú xứ thì không cần lễ bái, chỉ đứng ngay thẳng cạnh thầy, cứ thật trình bày. Nếu thầy mệt mỏi cơ thể hay tâm trí, bảo đi thì nên đi, không được lòng dạ không vui, hiện ra sắc mặt * Không được ngồi chơi chỗ ngồi của thầy, và nằm chơi giường thầy, dùng chơi áo mão của thầy, vân vân * Thầy đau ốm thì lo liệu từ đầu đến cuối. Phòng thất, chăn nệm, thuốc thang, cháo cơm vân vân, nhất nhất chú ý coi sóc * Cầm áo, đưa giày, giặt bẩn, sấy phơi, vân vân, thì dạy đủ cả trong Luật, ở đây không phiền sao chép *
(25) Phàm thị sư, bất mạng chi tọa bất cảm tọa, bất vấn bất cảm đối, trừ tự hữu sự dục vấn. Phàm thị lập, bất đắc ỷ bích kháo trác, nghi đoan thân tề túc trắc lập * Sư hữu sở sử linh, nghi cập thời tác biện, bất đắc vi mạn * Phàm thụy miên, bất đắc tiên sư, trừ hữu bịnh duyên, bạch sư doãn khế * Nhân vấn sư danh, đương vân thượng mỗ hạ mỗ * Bất đắc kiều túc xoa yêu, an nhiên ư sư tiền tọa ngọa. Như mạng tọa, sư khởi, tức ưng tốc khởi * Thủ hộ sư vật như kỷ thân mạng, bất đắc tư tự dữ nhân * Bất đắc ác nhãn thị sư *
Phàm hầu thầy, thầy không bảo ngồi thì không dám ngồi, không hỏi thì không dám thưa, trừ mình có việc muốn hỏi. Phàm đứng hầu thì không được dựa vách, tựa ghế, mà nên mình ngay thẳng, chân tề chỉnh, đứng cạnh thầy * Thầy có sai khiến gì thì nên kịp thời làm cho xong, không được trái, nhác, hay khinh thường * Phàm ngủ nghỉ, không được trước thầy, trừ lúc có bịnh, bạch thầy cho phép nghỉ ngơi * Ai hỏi tên thầy, nên nói trên chữ x, dưới chữ x * Không được kiễng chân tréo lưng, an nhiên nằm ngồi ở trước mặt thầy. Như thầy bảo ngồi thì khi thầy đứng dậy, mình phải tức tốc đứng dậy * Giữ đồ của thầy như giữ thân mạng của mình, không được theo ý riêng mà tự cho người * Không được nhìn thầy bằng con mắt ác cảm *
(26) Bất đắc ly sư tự trú. Nhược sư mạng chung, nhược sư hữu duyên viễn hành bất đắc tùy khứ, ưng lễ bạch bổn sư ưng y chỉ hà nhân. Đương như sư mạng, tức y chỉ trú, nhất thế hoàn đồng sự sư pháp vô dị. Nhược sư bất chỉ thị tiện mạng chung, tu cánh trạch lương đạo y chỉ nhi trú. Nhược sư phá giới, phá kiến, bị tăng như pháp như luật trị tẩn, diệc ưng biệt mích minh sư y chỉ nhi trú, bất đắc túng tình tự dụng *
Không được rời thầy ở riêng. Nếu thầy mạng chung, nếu thầy có duyên sự đi xa mà không được đi theo, thì phải lạy bạch thầy bổn sư hỏi nên y chỉ thầy nào. Phải đúng như mạng lịnh của thầy, y chỉ mà ở, và tất cả lại làm giống với cách thờ thầy, không khác chi cả. Nếu thầy không chỉ thị mà mạng chung ngay, thì phải lại chọn bậc lương đạo y chỉ mà ở. Nếu thầy phá giới, phá kiến, bị đại tăng y pháp y luật trị đuổi, thì cũng phải tìm riêng vị minh sư, y chỉ mà ở, không được buông thả tự chuyên *
(27) Bất đắc y chỉ tỷ kheo tăng trú. Bất đắc dữ sa di đồng trú. Bất đắc tùy sư trú du cảnh, hoa viên. Bất đắc tùy sư trú thần miếu, phần am. Sư nhược trú, đương tác lễ, như luật gián khuyến * Hạ an cư thời, đương tùy sư cận đại tỷ kheo giới trú, bất đắc ư vô tỷ kheo trú xứ hạ an cư * Sư hoặc hữu sở thí, đương cung kính đảnh lễ nãi thọ ; nhược dĩ hữu giả đương vân hữu, bất khả vọng thọ.
Không được y chỉ tỷ kheo tăng mà ở. Không được cùng sa di ở chung. Không được theo thầy ở chỗ du ngoạn, chỗ vườn hoa. Không được theo thầy ở miếu thần, am mộ. Nếu thầy ở, thì phải lạy mà khuyên can như Luật đã dạy * Lúc hạ an cư thì phải theo thầy ở gần khu vức đại tỷ kheo, không được ở chỗ không có tỷ kheo ở mà hạ an cư * Hoặc thầy có cho gì thì nên cung kính đảnh lễ mới nhận; nếu thứ mình đã có thì nên nói có, không được vọng nhận.
Tùy Sư Xuất Hành Đệ Tứ
(Thứ 4, Theo Thầy Đi Ra)
(28) Bất đắc quá lịch nhân gia. Bất đắc chỉ trú đạo biên cọng nhân ngữ. Bất đắc tả hữu cố thị, đương đê thủ bình mục tùy sư hậu * Đáo đàn việt gia, đương trụ nhất diện, sư giáo tọa nãi tọa. Đáo tha tự, sư lễ Phật hoặc tự lễ, bất đắc thiện tự minh khánh. Sư thọ trai, đương lập xuất sanh, trai tất, phục đương thị lập thâu sấn *
Không được ghé qua nhà người khác. Không được dừng ở bên đường cùng người nói chuyện. Không được ngoái nhìn hai bên, mà nên cúi đầu, mắt nhìn ngang tầm mắt, đi theo sau thầy * Đến nhà đàn việt, nên đứng một bên thầy, thầy dạy ngồi mới ngồi. Đến tự viện khác, thầy lạy Phật hoặc mình lạy, đều không được tự ý đánh khánh. Thầy thọ trai thì phải đứng hầu xuất sanh, thọ trai xong lại phải đứng hầu thâu nhận đồ hiến cúng *
(29) Nhược duyên vãng, đương dữ tam nhân cọng hành. Đương dữ đại ni cọng hành. Nhược dữ ưu bà di cọng hành, ưng trước pháp y hành, trước y đương tề chỉnh. Bất đắc phản sao y hành. Bất đắc y triền cảnh hành. Bất đắc khiêu hành. Bất đắc thủ xoa yêu hành. Bất đắc diêu thân hành. Bất đắc trạo tý hành. Bất đắc hý tiếu hành *
Nếu có duyên cớ, ra đi không có thầy thì phải cùng ba người đi chung. Hoặc phải cùng vị ni sư lớn đi chung. Nếu cùng ưu bà di đi chung thì phải mang pháp y mà đi, và mang pháp y thì phải tề chỉnh. Không được đi mà vắt trái y ra phía sau. Không được đi mà y quấn cổ. Không được đi mà nhảy. Không được đi mà chéo tay sau lưng. Không được đi mà lắc mình. Không được đi mà vung cánh tay. Không được đi mà giỡn cười *
(30) Tùy sư hậu hành, bất đắc tiễn sư hình ảnh * Đạo bàng, ngộ hữu hoa quả, bất đắc thiện trích * Tùy sư hà nhĩ vãng hoàn, bất đắc oán thanh ngôn khổ, hiện bì lao tướng * Nhược đạo phùng nam tử, bất đắc thị ức, đương quán không, tác bất tịnh tưởng. Nhược lộ kiến tục kỳ chi sự, bất đắc thất thanh tán mỹ
Đi theo sau thầy, không được dẫm lên bóng của thân hình thầy * Bên đường, gặp hoa trái, không được tự ý hái lấy * Theo thầy đi về xa gần, không được oán rằng khổ quá, lộ vẻ mệt nhọc * Trên đường nếu gặp con trai thì không được nhìn và nhớ, phải quán không, tu cái tưởng bất tịnh. Trên đường nếu thấy sự kỳ lạ của thế tục thì không được buột miệng khen đẹp.
Nhập Chúng Đệ Ngũ
(Thứ 5, Nhập Chúng)
(31) Bất đắc tranh tọa xứ. Bất đắc ư tòa thượng diêu tương hô ngữ tiếu * Chúng trung hữu thất nghi, đương ẩn ác dương thiện. Bất đắc phạt lao, hiển kỷ chi công * Bất đắc dữ đại tỷ kheo, đại tỷ kheo ni cọng tọa. Bất đắc tướng hình tiếu * Bất đắc cao thanh tỷ thế ẩu thổ. Bất đắc Phật tháp tứ biên đại tiểu tiện, sử xú khí lai nhập. Bất đắc hướng Phật tháp đại tiểu tiện. Bất đắc hướng Phật tháp thư cước tọa * Khiết trà thang thời, bất đắc chích thủ tác lễ. Bất đắc đa ngôn, đa tiếu, cập kha khiếm đương dĩ y tụ yểm khẩu *
Không được tranh chỗ ngồi. Không được trên chỗ ngồi mà gọi vói nhau, nói hay cười * Trong chúng có ai mất uy nghi, nên ẩn ác dương thiện. Không được khoe cái mệt để tỏ cái công của mình * Không được cùng đại tỷ kheo và đại tỷ kheo ni ngồi chung. Không được coi tướng hình dáng mà cười * Không được lớn tiếng hỉ mũi, nôn ọe, khạc nhổ. Không được bốn phía tháp Phật mà đại tiện tiểu tiện, làm cho hơi hôi bay vào tháp. Không được hướng về phía tháp Phật mà đại tiện tiểu tiện. Không được hướng về phía tháp Phật duỗi cẳng mà ngồi * Khi uống trà nước, không được dùng một tay còn lại mà thi lễ. Không được nói nhiều, cười nhiều, và ngáp thì phải lấy tay áo bưng miệng *
(32) Cúng Phật hoa, thủ khai viên giả, bất đắc tiên khứu. Trừ ủy giả phương cúng tân giả. Đy giả bất đắc khí địa tiễn đạp, nghi trước bình xứ * Ưng vị đại tỷ kheo ni cấp dương chi, tháo thủy đẳng, tùy lực năng vi, tức đương tác chi, bất đắc thâu an, đương cầu thắng phước * Nhược văn hô thời tức niệm Phật ứng chi, bất đắc vân hữu vân thị * Phàm thập di vật, đương bạch chủ sự tỷ kheo ni * Phàm thượng Phật điện, đương túc dung nghi, bất đắc phóng ý tự tiện * Bất đắc ác khẩu tương điều, bất đắc giáo nhân tác bất thiện ngữ *
Hoa cúng Phật thì lấy thứ nở vừa, và không được ngửi trước. Loại trừ thứ héo mới cúng thứ mới. Thứ héo cũng không được bỏ xuống đất dẫm đạp lên, mà nên đặt ở chỗ khuất * Nên vì đại tỷ kheo ni mà cung cấp tăm dương chi, nước rửa vân vân, tùy sức có thể làm gì là nên làm, không được cầu an mà nên cầu cái phước thù thắng * Nếu nghe gọi thì tức khắc niệm Phật mà trả lời, không được nói có đây hay nói tôi đây * Phàm nhặt của rơi thì phải bạch vị tỷ kheo ni chủ sự * Phàm lên điện Phật, phải nghiêm kính hình dung và cử chỉ, không được buông thả tự tiện * Không được dùng lời nói thô độc mà giễu chọc nhau, không được bày cho người nói lời không tốt *
(33) Bất đắc tọa thị đại chúng lao vụ, tỵ lại thâu an * Bất đắc tư thủ chiêu đề trúc mộc, hoa quả, sơ thái, nhất thế ẩm thực cập nhất thế khí vật đẳng * Phàm tự xưng, đương cử nhị tự pháp danh, bất đắc vân ngã cập mỗ giáp * Bất đắc nhân tiểu sự tranh chấp. Nhược đại sự nan nhẫn giả, diệc tu tâm bình khí hòa, dĩ lý luận biện; bất khả tắc từ nhi khứ. Nhược động khí xuất thô tức phi sa di ni * Nhập đại tăng đường, tiên lễ thánh tăng tượng, thứ hành thập phương lễ. Nhược kiến thức xoa ma na cập sa di, diệc ưng tác lễ.
Không được ngồi nhìn đại chúng làm việc mệt nhọc, mà mình tránh, nhác, cầu an * Không được lấy riêng của chiêu đề như tre cây, hoa trái, rau lá, mọi thứ đồ uống đồ ăn, mọi thứ đồ vật vân vân * Phàm tự xưng thì nên nói hai chữ pháp danh, không được nói ta hay nói xx * Không được nhân việc nhỏ mà tranh chấp. Nếu việc lớn khó nhẫn thì cũng phải tâm bình tĩnh, khí ôn hòa, lấy lẽ thảo luận ; không được thì từ mà đi. Nếu nổi giận nói thô thì không phải là sa di ni * Vào đại tăng đường, trước lạy tượng thánh tăng, kế làm lễ mười phương tăng chúng. Nếu thấy thức xoa ma na và sa di, thì cũng nên thi lễ.
Tùy Chúng Thực Đệ Lục
(Thứ 6, Theo Chúng Thọ Thực)
(34) Văn kiền chùy thanh, tức đương chỉnh y phục * Lâm thực chú nguyện, giai đương cung kính * Xuất sanh, phạn bất quá thất liệp, miến bất quá nhất thốn, man đầu bất quá chỉ giáp hử ; đa tắc vi tham, thiểu tắc vi xan; kỳ dư sơ thái, đậu hủ bất xuất. Phàm xuất sanh thời, mặc niệm kệ vân:
Nhữ đẳng quỉ thần chúng,
Ngã kim thí nhữ cúng,
Thử thực biến thập phương,
Nhất thế quỉ thần cọng *
Phàm ẩm thực, tác ngũ quán tưởng: Nhất kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ; nhị thỗn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng; tam phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông; tứ chánh sự lương dược, vị liệu hình khô; ngũ vị thành đạo cố, phương thọ thử thực *
Nghe tiếng kiền chùy là phải chỉnh đốn y phục * Lúc ăn, chú nguyện thì phải cung kính * Xuất sanh thì cơm không quá bảy hạt, bún không quá một tấc, bánh không quá cỡ móng tay; nhiều là tham, ít là lẫn; ngoài ra, rau lá và đậu hủ không xuất sanh. Phàm khi xuất sanh, hãy niệm thầm bài kệ sau đây:
Chúng quỉ thần các người,
Nay tôi cho cúng phẩm,
Cúng phẩm này khắp cả,
Quỉ thần cùng hưởng thụ *
Sắp ăn uống, phải làm năm quán tưởng: một, xét kể công lao nhiều ít và ước lượng lý do của thực phẩm; hai, nghĩ kyՠđức hạnh của mình đủ hay thiếu để ứng thọ sự cúng dường; ba, đề phòng tâm lý, tránh những tội lỗi mà tham sân si vẫn làm chủ yếu; bốn, chính vì lấy thực phẩm làm dược phẩm tốt để trị liệu thân hình khô yếu; năm, vì thành đạo nghiệp mới ứng thọ thực phẩm này *
(35) Vô ha thực hảo ác. Bất đắc dĩ thực tư sở dữ, nhược trích dữ cẩu * Lai ích thực, bất đắc ngôn bất dụng; nhược dĩ bão, đương dĩ thủ nhượng khước chi * Bất đắc trảo đầu, sử phong tiết lạc lân bát trung. Bất đắc hàm thực ngữ. Bất đắc tiếu đàm tạp thoại. Bất đắc tước thực hữu thanh * Như khiêu nha, dĩ tụ yểm khẩu. Thực trung hoặc hữu trùng nghị, nghi mật yểm tàng chi, mạc linh lân đơn kiến sanh nghi tâm * Đương nhất tọa thực, bất đắc thực ngật, ly tòa, cánh tọa thực. Bất đắc thực ngật, dĩ thủ chỉ quát oản bát thực * Phàm thực, bất đắc thái tốc, bất đắc thái trì. Hành thực vị chí, bất đắc sanh phiền não. Hoặc hữu sở nhu, mặc nhiên chỉ thọ, bất đắc cao thanh đại hoán. Bất đắc oản bát tác thanh * Bất đắc thực tất tiên khởi * Nhược vi tăng chế, văn bạch chùy, bất đắc kháng cự bất phục * Phạn trung hữu cốc, khử bì thực chi * Bất đắc kiến mỹ vị sanh tham tâm, tứ khẩu thực. Bất đắc thiên chúng thực *
Không được la rầy đồ ăn tốt xấu. Không được lấy đồ ăn cho riêng, hoặc trích cho chó * Người đến thêm đồ ăn, không được bảo không dùng; nếu no rồi thì phải lấy tay từ khước * Không được lấy móng tay gãi đầu, làm cho gió thổi hắt mạt vụn rơi trong bát của người ngồi bên cạnh. Không được ngậm đồ ăn mà nói. Không được cười bàn chuyện tạp. Không được nhai đồ ăn ra tiếng * Muốn khêu răng, phải lấy tay áo che miệng. Trong đồ ăn hoặc có sâu kiến, nên kín đáo che giấu đi, đừng để người ngồi đơn bên cạnh thấy, sanh nghi ngại * Phải ngồi ăn một lần mà thôi, không được ăn xong, rời chỗ ngồi rồi, lại ngồi ăn nữa. Không được ăn xong, lấy ngón tay vét chén bát mà ăn * Phàm ăn, không được quá mau, không được quá chậm. Người đi thêm đồ ăn chưa đến, không được sanh phiền não. Hoặc có cần gì, thì yên lặng dùng ngón tay mà trao ý, không được lớn tiếng gọi to. Không được khua chén bát ra tiếng * Không được ăn rồi dậy trước * Nếu trái qui chế tăng chúng, nghe bạch kiền chùy, không được kháng cự bất phục * Trong cơm có lúa thì bỏ vỏ mà ăn * Không được thấy mỹ vị thì sanh tham tâm, phóng túng miệng mà ăn. Không được ăn riêng tăng chúng *
(36) Thọ thực thời, tả thủ trì bát, hữu phủ phò duyên * Thực vị tất, bất đắc tiên khởi; tu sĩ kiết trai, đồng chúng nhi khởi * Ngọ hậu, bất đắc vọng ức kỳ thực. Đương chỉ tham niệm, cẩn tuân pháp luật, ninh tử bất thực * Bất đắc tự súc túc thực. Bất đắc vị tha nhân súc túc thực. Bất đắc giáo dư sa di ni phi thời thực.
Khi thọ thực, tay trái bưng bát, tay phải dựa mà giữ bát * Nghi thức thọ thực chưa hoàn tất, không được dậy trước; phải đợi kiết trai, đồng chúng mà dậy * Sau giờ ngọ, không được vọng nhớ sự ăn. Phải chận tham tâm, kính tuân giới luật, thà chết chứ không ăn phi thời * Không được tự cất đồ ăn đêm. Không được cất đồ ăn đêm cho người khác. Không được bày cho sa di ni khác ăn phi thời.
Lễ Bái Đệ Thất
(Thứ 7, Lễ Bái)
(37) Lễ bái, bất đắc chiếm điện trung ương, thị trú trì vị. Hữu nhân lễ Phật, bất đắc hướng bỉ nhân đầu tiền kính quá * Phàm hiệp chưởng, bất đắc thập chỉ sâm si, bất đắc trung hư, bất đắc tương chỉ sáp tỷ trung, tu bình hung, cao đê đắc sở * Bất đắc phi thời lễ bái, như dục phi thời lễ, tu đãi nhân tịnh thời * Sư lễ Phật, bất đắc dữ sư tịnh lễ, đương tùy hậu viễn bái. Sư bái nhân, bất đắc dữ sư đồng bái. Tại sư tiền, bất đắc dữ đồng loại tương lễ. Tại sư tiền bất đắc thọ nhân lễ. Kỷ thủ trì kinh tượng, bất đắc vị nhân tác lễ * Phàm lễ bái, tu tinh thành tác quán. Giáo liệt thất chủng lễ, bất khả bất tri *
Lễ bái, không được chiếm chỗ chính giữa điện Phật, vì đó là vị trí của vị trú trì. Có người lạy Phật, không được hướng tới trước đầu người ấy mà đi tắt – Phàm chắp tay, không được mười ngón so le, không được trống rỗng ở giữa, không được đưa ngón tay cắm vào lỗ mũi, phải để tay ngang ngực, cao thấp đúng chỗ * Không được lễ bái không phải lúc; muốn lễ bái không phải lúc thì phải đợi lúc mọi người yên tĩnh * Thầy lạy Phật, không được cùng thầy lạy ngang nhau, mà phải theo sau thầy và lạy cách xa. Thầy xá lạy người, không được cùng thầy đồng xá lạy. Ở trước thầy, không được cùng đồng bậc lạy nhau. Ở trước thầy, không được nhận người lạy. Tay mình cầm kinh tượng thì không được lạy người * Phàm lễ bái, phải tinh thành mà quán tưởng. Giáo lý liệt kê bảy cách lạy, không thể không biết *
(38) Chúc phạn hậu, xỉ mộc thanh tịnh, phương hành lễ kính * Bất ưng trước điệp y lễ tha nhân, diệc bất đắc trước điệp y thọ đàn việt lễ, đương hằng trước man điều ca sa * Nghệ tục tỉnh thân, bất đắc tác lễ tục thân quyến thuộc, duy chí thành hiệp chưởng vấn tấn.
Sau khi ăn cháo, ăn cơm, phải đánh răng, gột rửa sạch sẽ, mới làm việc lễ kính * Không được mặc áo ngắn lạy người khác, cũng không được mặc áo ngắn nhận đàn việt lạy, trường hợp nào cũng phải thường mặc ca sa man điều * Đến nhà tục thăm người thân, thì không được lạy thân nhân bà con thế tục, chỉ chí thành chắp tay hỏi thăm.
Tập Học Kinh Điển Đệ Bát
(Thứ 8, Học Tập Kinh Điển)
(39) Nghi tiên học sa di ni thập giới, chư uy nghi, hậu học tu đa la, bất đắc vi việt. Phàm học kinh, tiên tu bạch sư, kinh hoàn, cánh bạch sư học mỗ kinh * Bất đắc ô thủ trì kinh quyển. Bất đắc khẩu xuy kinh thượng trần. Bất đắc án thượng lang tạ quyển trật. Bất đắc kinh án thượng bao tàng trà mạt tạp vật * Đối kinh điển như đối Phật * Bất đắc tá nhân kinh khán bất hoàn, cập bất gia ái trọng dĩ trí tổn hoại *
Phải trước học mười giới luật và các uy nghi của sa di ni, sau học kinh, không được trái vượt thứ tự ấy. Phàm học kinh nào thì phải bạch thầy trước, kinh ấy xong thì lại bạch thầy mà học kinh khác * Không được tay dơ mà cầm kinh điển. Không được dùng miệng thổi bụi trên kinh. Không được trên bàn kinh để quyển pho bừa bãi. Không được trên bàn kinh mà cất để trà mạt, tạp vật * Đối với Kinh như đối với Phật * Không được mượn kinh của người để coi mà không trả, lại không gia tâm quí trọng để đến nỗi hư hỏng *
(40) Bất đắc tiếu kinh ngữ * Phàm độc kinh luật thời tiên lễ kinh luật tam bái, phương song thủ thỉnh quyển ư án; tương khai quyển, tiên tất hiệp chưởng tụng khai kinh kệ, yểm quyển dĩ, nhưng thỉnh cúng Phật tượng tiền, tác lễ tam bái nãi khước. Độc kinh luật án ưng tịnh khiết, phần lô hương * Bất đắc sa di ni luật nghi phóng đại thừa kinh thượng. Bất đắc dĩ mạo trí kinh luật quyển thượng. Bất đắc nhị nhân hý tiếu độc kinh luật. Độc kinh bất đắc vũ án, khúc thân, kiều túc, lụy khỏa. Bất đắc cao thanh động chúng. Bất đắc ngọa độc xuất thanh.
Không được cười lời trong kinh luật * Phàm lúc đọc kinh luật thì trước lạy kinh luật ba lạy, mới hai tay thỉnh quyển kinh luật ấy đến nơi bàn đọc; sắp mở quyển ra để đọc thì trước hết phải chắp tay tụng bài kệ khai kinh; đọc và xếp quyển lại rồi, vẫn thỉnh quyển ấy đem để thờ cúng trước tượng Phật, làm lễ ba lạy mới lui ra. Bàn đọc kinh luật thì phải lau sạch sẽ và đốt hương trong lò * Không được đem sách Sa di ni luật nghi để trên kinh luật đại thừa. Không được đem mão để trên cuốn kinh luật. Không được hai người cùng giỡn cười mà đọc kinh luật. Khi đọc kinh luật thì không được vỗ bàn, cong mình, kiễng chân, chồng gót. Không được đọc lớn tiếng động chúng. Không được nằm đọc ra tiếng.
Thính Pháp Đệ Cửu
(Thứ 9, Nghe Pháp)
(41) Đương chỉnh lý y phục. Bình thị trực tiến. Tọa tất đoan nghiêm. Bất đắc loạn ngữ. Bất đắc khái thóa * Phàm thính pháp tu văn nhi tư, tư nhi tu, bất đắc chuyên ký danh ngôn dĩ tư đàm bính. Bất đắc vị hội xưng hội, nhập nhĩ xuất khẩu * Chí thuyết pháp xứ, tiên lễ tòa tam bái phương tọa, thính cánh, khởi thân nhưng lễ tam bái, bàng lập, hầu thuyết giả hạ tòa, phương hồi bản sở * Bất đắc lai khứ vô lễ, tọa cửu sanh yểm.
Phải chỉnh đốn y phục. Nhìn ngang tầm mắt, tới thẳng pháp đường. Ngồi, tất phải thẳng và nghiêm. Không được nói bậy. Không được ho và nhổ * Phàm nghe pháp, phải nghe mà nghĩ, nghĩ mà tu, không được chuyên nhớ danh ngôn để cung cấp cho việc đàm luận. Không được chưa lãnh hội xưng lãnh hội, vào tai ra miệng * Đến chỗ thuyết pháp, trước lạy pháp tòa ba lạy mới ngồi, nghe rồi, đứng dậy vẫn lạy ba lạy, đứng ra một bên, hầu vị thuyết pháp xuống pháp tòa, mới về chỗ của mình * Không được đi lại vô lễ, ngồi lâu sinh chán.
Nhập Tự Viện Đệ Thập
(Thứ 10, Vào Tự Viện)
(42) Phàm nhập tự môn, bất đắc hành trung ương, tu duyên tả hữu biên hành; duyên tả tiên tả túc, duyên hữu tiên hữu túc * Bất đắc vô cố đăng đại điện du hành. Bất đắc vô cố đăng tháp. Nhập điện tháp đương hữu nhiễu, bất đắc tả chuyển. Bất đắc điện tháp trung thế thóa. Nhiễu tháp hoặc tam tạp, thất tạp, nãi chí thập bách, tu tri biến số.- Bất đắc dĩ lạp trượng đẳng ỷ điện bích. Bất đắc trước mộc kịch, cập bất tịnh lý nhập điện tháp trung. Bất đắc ư Phật điện trung hình tướng Phật tượng. Bất đắc điện tháp trung thư cước tọa. Bất đắc thượng tháp hướng song dũ quan vọng.
Phàm vào cửa chùa, không được đi chính giữa. Phải ven theo bên trái bên phải mà đi. Ven bên trái thì trước bước chân trái, ven bên phải thì trước bước chân phải * Không được vô cớ lên đại điện dạo chơi. Không được vô cớ lên tháp. Vào điện tháp, phải đi vòng quanh bên phải, không được đi vòng quanh bên trái. Không được trong điện tháp mà hỉ nước mũi, nhổ nước miếng. Nhiễu tháp thì hoặc ba vòng, bảy vòng, cho đến mười vòng, trăm vòng, và phải biết số vòng ấy * Không được đem nón gậy vân vân để dựa vào vách điện Phật. Không được mang guốc gỗ và giày không sạch vào trong điện tháp. Không được trong điện Phật mà coi hình coi tướng tượng Phật. Không được trong điện tháp mà ngồi duỗi chân. Không được lên tháp, hướng ra cửa sổ cửa vách mà nhìn ngắm.
Nhập Thiền Đường Tùy Chúng Đệ Thập Nhất
(Thứ 11, Vào Nhà Thiền Với Đồng Chúng)
(43) Bất đắc cao thanh đại ngữ. Khinh thủ yết liêm, tu thùy hậu thủ. Bất đắc đà hài tác thanh. Bất đắc đại khái sấu tác thanh.- Phàm tẩy diện, bất đắc đa sử thủy. Sấu khẩu thổ thủy, tu đê đầu dẫn thủy hạ, bất đắc phún thủy tiễn nhân * Bất đắc tam y cẩu giản. Bất đắc đa tác y phục, nhược hữu dư đương xả. Bất đắc trước loại tục gia phụ nữ y sức đẳng. Bất đắc dĩ bạch đới thúc yêu * Bất đắc bất tịnh thủ đáp y * Bất đắc tương Phật đăng tư tựu kỷ dụng. Nhiên đăng, đương dĩ tráo mật phú, vật linh phi trùng đầu nhập *
Không được lớn tiếng to lời. Nhẹ tay thả sáo phải đỡ tay phía sau. Không được kéo giày ra tiếng. Không được ho khan ho đàm lớn tiếng * Phàm rửa mặt, không được sử dụng nhiều nước. Súc miệng nhổ nước, phải cúi đầu đưa nước xuống, không được phun nước tạt ướt người * Không được đối với ba pháp y mà cẩu thả thiếu sót. Không được sắm nhiều y phục, nếu có thừa thì nên bỏ ra mà cho. Không được mặc y phục và dùng đồ trang sức vân vân giống với đàn bà con gái thế tục. Không được dùng dải trắng buộc lưng * Không được tay không sạch mà đắp y * Không được đem đèn của Phật dùng riêng cho mình. Thắp đèn, phải lấy lồng che kín, đừng để loại phi trùng gieo vào *
(44) Bất đắc nhàn tẩu * Bất đắc dữ nhân kết bái thân hữu * Bất đắc ư tích xứ lỏa hình tự lộng thân thể. Bất đắc chiếu cảnh ma vấn diện mục, họa mi * Thượng đơn hạ đơn câu đương tế hạnh, vật linh lân đơn động niệm. Bất đắc đơn thượng phùng bổ y bị.
Không được đi dạo * Không được cùng người kết làm bà con bạn bè * Không được ở chỗ khuất khỏa thân, tự mân mê thân thể. Không được soi gương xoa mặt, kẻ mắt, vẽ mày * Lên đơn xuống đơn đều phải nhẹ nhàng, đừng làm người trên đơn bên cạnh động niệm. Không được trên đơn may vá áo chăn.
Chấp Tác Đệ Thập Nhị
(Thứ 12, Làm Việc)
(45) Đương tích chúng tăng vật. Đương tùy tri sự giả giáo lệnh, bất đắc vi lệ * Phàm tẩy thái, đương tam dịch thủy. Phàm cấp thủy, tiên tịnh thủ * Phàm dụng thủy, tu đế thị hữu trùng vô trùng, nhược hữu trùng, dĩ mật la lự quá phương dụng; nhược nghiêm đông, bất đắc tảo lự thủy, tu đãi nhật xuất. Phàm thiêu táo, bất đắc nhiên hủ tân * Phàm tác thực, bất đắc đới trảo giáp cấu *
Phải thương tiếc vật của tăng chúng. Phải tùy giáo lịnh của vị tri sự, không được trái, ngang * Phàm rửa rau, phải ba lần đổi nước. Phàm múc nước, trước phải sạch tay * Phàm dùng nước, phải nhìn kỹ có trùng không trùng, nếu có trùng thì lấy là dày lọc đi mới dùng ; mùa đông lạnh lắm thì không được lọc nước sớm, phải chờ mặt trời mọc. Phàm đốt bếp, không được đốt củi thối mục * Phàm làm đồ ăn, không được để bẩn trong móng tay *
(46) Phàm khí ác thủy, bất đắc đương đạo, bất đắc cao thủ dương bát; đương ly địa tứ ngũ thốn, từ từ khí chi. Phàm tảo địa, bất đắc nghinh phong tảo, bất đắc tụ khôi thổ an môn phiến hậu * Tẩy nội y, tiên tu thập khứ kỷ sắt. Hạ nguyệt, dụng thủy bồn liễu, tu phúc linh càn, nhược ngưỡng tức trùng sanh * Bất đắc nhiệt thang bát địa thượng.
Phàm đổ bỏ nước dơ, không được đổ ra đường đi, không được cao tay dơ lên đổ xuống bắn ra; phải cách đất bốn năm tấc từ từ đổ bỏ nước ấy. Phàm quét đất, không được quét ngược gió, không được dồn đất bụi vào sau cánh cửa * Giặt áo trong, trước hết phải nhặt bỏ rận chấy. Những tháng hè, dùng chậu nước rồi, phải lật úp xuống làm cho khô ráo, nếu để ngửa ra là sinh trùng * Không được nước sôi đang nóng mà rót bắn trên đất.
Nhập Dục Đệ Thập Tam
(Thứ 13, Vào Nhà Tắm)
(47) Bất đắc dữ ưu bà di cọng tẩy. Bất đắc dữ tỳ sử cọng tẩy. Bất đắc dữ tiểu nhi cọng tẩy * Tiên dĩ thang tẩy diện. Tùng thượng chí hạ, từ từ tẩy chi. Bất đắc thô táo dĩ thang thủy tiễn tha nhân. Bất đắc dục đường tiểu di. Bất đắc tự thị hình thể ẩn xứ. Bất đắc cọng nhân ngữ tiếu * Phàm hữu sang tiển, nghi tại hậu dục; hoặc hữu khả úy giả, vưu nghi hồi tỵ. Bất đắc tứ ý cửu tẩy, phương ngại hậu nhân * Thoát y trước y, an tường tự tại * Thang lãnh nhiệt, y lệ kích bang, bất đắc đại hoán.
Không được cùng ưu bà di tắm rửa chung. Không được cùng tỳ sử tắm rửa chung. Không được cùng trẻ con tắm rửa chung * Trước, lấy nước nóng rửa mặt. Rồi từ trên đến dưới, từ từ mà rửa. Không được tinh nghịch, lấy nước nóng tạt người khác. Không được trong nhà tắm mà tiểu giải. Không được tự nhìn chỗ ẩn của hình thể. Không được cùng người nói cười * Phàm có ghẻ nhọt ghẻ lở thì nên tắm sau; hoặc có ghẻ nhọt đáng sợ, càng nên tránh đi. Không được mặc ý tắm rửa lâu, trở ngại người sau * Cởi áo mặc áo nên thung dung tự tại * Cần nước nóng đã nguội hay còn nóng thì y lệ mà đánh mõ dài, không được gọi lớn.
Nhập Xí Đệ Thập Tứ
(Thứ 14, Vào Nhà Xí)
(48) Dục đại tiểu tiện tức hành, mạc đãi nội bức thảng thốt. Trúc can thượng quải trực chuyết, triệp linh tề chỉnh, dĩ thủ cân hoặc yêu thao hệ chi, nhất tác ký nhận, nhị phòng đọa địa. Tu thoát hoán hài lý, bất đắc tịnh lý nhập xí * Bất đắc dữ nhân cọng xí. Bất đắc thượng nam tử xí thượng * Chí, đương đàn chỉ, hoặc khánh khái, sử nội nhân tri. Bất đắc bách xúc nội nhân sử xuất. Dĩ thượng, phục đương đàn chỉ tác thanh, linh xí trung phi nhân tri *
Muốn đại tiện tiểu tiện là đi ngay, đừng đợi trong cơ thể bức bách mà thảng thốt. Trên sào tre treo áo trực chuyết thì phải gấp xếp cho tề chỉnh, lấy khăn tay hoặc dây lưng buộc áo ấy, một là làm dấu nhận biết, hai là phòng rơi xuống đất. Phải cởi đổi giày dép, không được mang giày dép sạch vào nhà xí * Không được cùng người đi chung một lần trong nhà xí. Không được vào trong nhà xí đàn ông * Đến nhà xí, phải đàn chỉ hoặc dặng hắng, để cho người ở trong đó biết. Không được thúc bách người ở trong đó cho họ phải ra. Đã lên nhà xí, lại phải đàn chỉ ra tiếng, làm cho loài không phải người ở trong nhà xí biết *
(49) Bất đắc đê đầu thị hạ. Bất đắc trì thảo họa địa. Bất đắc nỗ khí tác thanh. Bất đắc cách bích cọng nhân ngữ. Bất đắc thóa bích * Tiện tất, đương tiên tẩy tịnh, thứ tẩy thủ; vị tẩy thủ, bất đắc trì vật. Vị tẩy tịnh tẩy thủ, phùng nhân bất đắc tác lễ, nghi trắc thân tỵ chi. Bất đắc duyên lộ hành hệ y đới.
Không được cúi đầu nhìn xuống. Không được cầm cỏ vẽ đất. Không được rán hơi ra tiếng. Không được cách vách cùng người nói chuyện. Không được nhổ nước miếng vào vách * Tiện lợi hoàn tất, phải trước hết rửa sạch, kế đó rửa tay; chưa rửa tay thì không được cầm nắm đồ vật. Chưa rửa sạch và rửa tay, thì gặp người không được thi lễ; phải nghiêng mình tránh họ. Không được ven theo đường vừa đi vừa buộc áo, dải.
Miên Ngọa Đệ Thập Ngũ
(Thứ 15, Nằm Ngủ)
(50) Phàm xứ, thụy bất tại nhân tiền, khởi bất tại nhân hậu * Bất đắc dữ đại tỷ kheo ni đồng thất túc. Bất đắc dữ đồng sự sa di ni cập thức xoa ma na cọng tháp, thiết vô dị tháp bất đắc cọng bị, thiết vô dị bị tu các trước sấn thân y * Bất đắc nhập Phật tháp trung chỉ túc, trừ vị thủ hộ. Đương đầu thâu Phật. Đương ủ ngọa, bất đắc thân cước, bất đắc ngưỡng hướng tần thân. Bất đắc lỏa khỏa tự lộ. Bất đắc thủ cận bất tịnh xứ * Phàm quải hài miệt tiểu y đẳng, bất đắc quá nhân đầu diện * Bất đắc cọng lân đơn thuyết thoại, động chúng * Thiện kiến luật vân, lâm dục thụy thời, ưng tiên niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thiên, niệm vô thường; ư lục niệm trung tùy nhất nhất niệm.
Ở đâu, ngủ không trước người, dậy không sau người * Không được cùng đại tỷ kheo ni ngủ đồng phòng. Không được cùng sa di ni đồng sự và thức xoa ma na chung giường, nếu không có giường khác thì không được chung chăn, nếu không có chăn khác thì phải ai cũng mặc áo lót mình * Không được vào trong tháp Phật mà ngủ, trừ vì giữ gìn tháp ấy. Nằm ngủ nên xoay đầu về phía Phật. Nên nằm cong lưng, không được duỗi cẳng, không được ngả ngửa, co duỗi. Không được hở hang tự lộ. Không được để tay gần chỗ bất tịnh * Phàm treo giày, tất, áo nhỏ vân vân, không được quá đầu và mặt người * Không được cùng người trên đơn bên cạnh nói chuyện, động chúng * Thiện kiến luật nói, khi sắp ngủ thì trước phải tưởng nhớ Phật, tưởng nhớ Pháp, tưởng nhớ Tăng, tưởng nhớ giới luật, tưởng nhớ chư thiên, tưởng nhớ vô thường; trong 6 sự tưởng nhớ như vậy, tùy đó mà tưởng nhớ.
Vi Lô Đệ Thập Lục
(Thứ 16, Quanh Lò Lửa)
(51) Bất đắc giao đầu tiếp nhĩ thuyết thoại. Bất đắc đàn cấu nị hỏa trung. Bất đắc hồng bồi hài miệt * Bất đắc hướng hỏa thái cửu, phương hậu nhân. Xảo noãn, tiện nghi qui vị.
Không được giao đầu tiếp tai nói chuyện. Không được gảy búng cáu bẩn vào trong lửa. Không được hơ sấy giày, tất * Không được hơ lửa quá lâu, trở ngại người sau. Hơi ấm, liền nên về chỗ.
Tại Phòng Trung Trú Đệ Thập Thất
(Thứ 17, Ở Trong Phòng)
(52) Canh tương vấn tấn, tu tri đại tiểu. Tứ phần luật vân, sa di dĩ sanh niên vi thứ đệ, nhược sanh niên đẳng giả dĩ xuất gia niên nguyệt vi thứ đệ, khiêm hòa vi cao thượng; kỳ sa di ni diệc nhĩ * Dục trì đăng hỏa nhập, dự cáo phòng nội tri, vân hỏa nhập; dục diệt đăng hỏa, dự vấn đồng phòng nhân, cánh dụng đăng phủ. Bất đắc khẩu xuy đăng hỏa, ưng từ khước chú linh tức. Diệt đăng hậu, bất đắc cao thanh niệm tụng *
Chào hỏi nhau, phải biết lớn nhỏ. Tứ phần luật nói, sa di nên lấy năm sinh làm thứ tự, nếu năm sinh ngang nhau thì nên lấy năm tháng xuất gia làm thứ tự. Tuy nhiên, hãy lấy đức tính khiêm tốn hòa nhã mà làm cao thượng. Sa di ni cũng vậy * Muốn cầm lửa đèn vào, phải bảo trước trong phòng biết, rằng tôi cầm lửa đèn vào; muốn tắt lửa đèn, phải hỏi trước người cùng phòng còn dùng nữa không. Không được dùng miệng thổi lửa đèn, mà nên từ từ hạ tim làm cho tắt đi. Sau khi tắt đèn, không được lớn tiếng tụng niệm *
(53) Nhược hữu bịnh nhân, đương từ tâm thỉ chung khán chi. Hữu nhân thụy, bất đắc đả vật tác hưởng, cập cao thanh ngữ tiếu * Bất đắc vô cố nhập tha phòng viện * Bất đắc khái thóa thất trung tịnh địa cập tứ bích * Bất đắc dữ bạn hý luận, thuyết thế gian bất cấp chi sự.
Nếu có bịnh nhân thì nên từ tâm coi sóc từ đầu đến cuối. Có người ngủ thì không được đụng đồ ra tiếng, và lớn tiếng nói cười * Không được vô cớ vào phòng khác * Không được ho nhổ xuống nền đất sạch và bốn phía tường vách trong phòng * Không được cùng bạn hý luận, nói việc thế gian, không cấp bách.
Chí Đàn Việt Gia Đệ Thập Bát
(Thứ 18, Đến Nhà Đàn Việt)
(54) Hữu dị tòa đương tọa, bất nghi tạp tọa. Bất đắc tả hữu cố thị. Bất đắc dữ tỳ cọng tư ngữ * Nhân vấn kinh, đương tri thời, thận vật vi phi thời chi thuyết. Nhược dữ nam tử thuyết pháp, bất đắc đê thanh mật ngữ. Bất đắc đa ngữ. Bất đắc cuống thuyết Phật pháp, loạn đáp tha vấn, tự mại đa văn, cầu bỉ cung kính. Bất đắc trá hiện uy nghi, giả trang thiền tướng *
Có chỗ ngồi khác mới nên ngồi, không được ngồi tạp. Không được ngoái nhìn hai bên. Không được cùng tớ gái nói riêng với nhau * Người ta hỏi kinh thì phải biết lúc, thận trọng đừng làm cái việc nói không phải lúc. Thuyết pháp cho nam tử thì không được thấp tiếng nói thầm. Không được nói nhiều. Không được nói dối trá chánh pháp của Phật, đáp rối loạn lời hỏi của người, tự khoe đa văn, cầu họ cung kính. Không được trá hiện uy nghi, giả trang thiền tướng *
(55) Chủ nhân thiết thực, tuy phi pháp hội, diệc vật thất nghi quy * Bất đắc chí táo hạ tọa thực. Bất đắc tạp tọa tửu tịch * Bất đắc không thất nội, hoặc bình xứ, dữ nam tử cọng tọa cọng ngữ. Bất đắc thư sớ vãng lai, cập giả tá đẳng * Bất đắc tống hạp lễ, hiệu bạch y vãng hoàn. Bất đắc kết bái bạch y nhân tác phụ mẫu tỷ muội huynh đệ. Bất đắc quản nhân gia vụ * Bất đắc thuyết tăng trung quá *
Chủ nhân thiết trai, dẫu không phải pháp hội, cũng đừng bỏ nghi thức. Không được đến ngồi dưới bếp mà ăn. Không được ngồi xen tiệc rượu * Không được ở trong nhà vắng, hoặc ở chỗ khuất, cùng nam tử ngồi với nhau, nói với nhau. Không được thư từ qua lại, và mượn nhờ vân vân * Không được đưa biếu lễ vật, học đòi sự giao hảo của người đời. Không được cùng người đời kết làm cha mẹ, chị em, anh em. Không được lo liệu việc nhà của người * Không được nói lỗi lầm trong tăng chúng *
(56) Nhược nghệ tục tỉnh thân, đương tiên nhập trung đường lễ Phật, hoặc gia đường thánh tượng tiền đoan trang vấn tấn, thứ phụ mẫu quyến thuộc đẳng, nhất nhất vấn tấn. Bất đắc hướng phụ mẫu thuyết sư pháp nghiêm, xuất gia nan, tịch liêu đạm bạc, gian tân khổ khuất đẳng sự ; nghi vị thuyết PhạAầt pháp, linh sanh tín tăng phước. Bất đắc dữ thân tộc tiểu nhi đẳng cửu tọa cửu lập, tạp thoại hý tiếu * Bất đắc dữ ưu bà di tương khán hình thể đại tiếu. Bất đắc độc chí xá hậu. Vô phạm dạ hành * Nhược thiên vãn tác túc, đương độc xử nhất tháp, đa tọa thiểu ngọa, nhất tâm niệm Phật ; sự ngật tức hoàn, bất đắc lưu liên *
Đến nhà tục thăm người thân, phải trước hết vào nhà chính lạy Phật, hoặc đến trước tượng thánh trong nhà nghiêm chỉnh chắp tay, thứ đến cha mẹ bà con vân vân, nhất nhất chào hỏi. Không được hướng về cha mẹ nói những việc như cái nghiêm của phép thầy, cái khó của xuất gia, cô liêu đạm bạc, gian nan khổ sở vân vân ; nên vì cha mẹ nói Phật pháp, làm cho cha mẹ phát sinh tín tâm và tăng trưởng phước đức. Không được cùng thân tộc, thiếu niên vân vân, ngồi lâu đứng lâu, nói tạp giỡn cười * Không được cùng ưu bà di coi hình thể của nhau và cả cười. Không được một mình đến sau nhà người ta. Đừng phạm cái lỗi đi đêm * Nếu trời tối, ngủ lại, phải dùng riêng một giường, ngồi nhiều nằm ít, nhất tâm niệm Phật; việc xong về liền, không được lưu luyến.
Khất Thực Đệ Thập Cửu
(Thứ 19, Khất Thực)
(57) Đương dữ lão thành nhân câu. Nhược vô nhân câu, đương tri sở khả hành xứ * Đáo nhân môn hộ, nghi thẩm cử thác, bất đắc thất uy nghi. Gia vô nữ nhân, bất khả nhập môn * Nhược dục tọa, tiên đương chiêm thị tòa tịch: hữu đao binh bất nghi tọa, hữu bảo vật bất nghi tọa * Dục thuyết kinh, đương tri sở ưng thuyết thời, bất ưng thuyết thời * Bất đắc thuyết dữ ngã thực linh nhĩ đắc phước. Bất đắc ai cầu khổ sách. Bất đắc quảng đàm nhân quả, vọng bỉ đa thí * Bất đắc chuyên hướng thục tình thí chủ gia cập thục tình am viện xứ sách thực.
Nên cùng bậc lão thành đi chung. Nếu không có bậc lão thành đi chung thì phải biết chỗ có thể đi * Đến cửa ngõ của người, phải xét kỹ cử động, không được để mất uy nghi. Nhà không có phụ nữ thì không được vào cửa * Nếu muốn ngồi, trước hết phải xem kỹ chỗ ngồi: có khí giới không nên ngồi, có đồ quí không nên ngồi * Muốn nói kinh, phải biết lúc đáng nói, lúc không đáng nói * Không được nói cho tôi đồ ăn thì làm cho người được phước. Không được khẩn khoản nài nỉ. Không được nói nhiều về nhân quả, mong họ cho nhiều * Không được hay đến nhà thí chủ thân tình hoặc chỗ am viện thân tình mà đòi hỏi thực phẩm.
Nhập Tụ Lạc Đệ Nhị Thập
(Thứ 20, Vào Chỗ Dân Cư)
(58) Hữu Tam bảo sự cập khán bịnh đẳng thiết duyên phương nhập; vô thiết duyên bất đắc nhập. Tức nhập, diệc mích như pháp giả bạn * Bất đắc trì hành. Bất đắc diêu tý hành. Bất đắc bàng thị nhân vật hành; nghi đoan thân bình mục, trực thị nhi hành. Bất đắc cọng tiểu niên đàm tiếu hành. Bất đắc dữ nam nhân tiền hậu hỗ hành. Bất đắc dữ nam tăng tiền hậu hỗ hành. Bất đắc dữ túy nhân cuồng nhân tiền hậu hỗ hành *
Có lý do cần thiết, là việc của Tam bảo và thăm bịnh vân vân, mới vào; không có lý do cần thiết thì không được vào. Tức như có vào thì cũng kiếm người đúng phép làm bạn đi theo * Không được đi như chạy. Không được đi mà lay động cánh tay. Không được đi mà nhìn qua hai bên những người và vật; nên mình thẳng, mắt bằng, nhìn ngay mà đi. Không được đi mà cùng thiếu niên nói cười. Không được đi mà cùng nam nhân trước sau theo nhau. Không được đi mà cùng nam tăng trước sau theo nhau. Không được đi mà cùng người say người cuồng trước sau theo nhau *
(59) Hoặc phùng tôn túc thân thức, câu lập hạ bàng, tiên ý vấn tấn. Hoặc phùng hý huyễn kỳ quái đẳng sự, câu bất nghi khán. Hoặc ngộ quan phủ, bất luận đại tiểu, câu nghi hồi tỵ Hoặc ngộ đấu tránh giả diệc viễn tỵ chi, bất đắc trụ khán * Phàm ngộ thủy khanh, thủy khuyết, bất đắc khiêu việt; hữu lộ đương nhiễu hành, vô lộ, chúng giai khiêu việt tắc đắc * Bất đắc hồi tự khoa trương sở kiến kỳ sự.
Gặp tôn túc, thân thức, thì nên đứng chỗ thấp hoặc đứng một bên, chào hỏi trước. Gặp những sự kỳ lạ như trò chơi, ảo thuật vân vân, đều không nên xem. Hoặc gặp quan quyền, bất luận lớn nhỏ, đều nên tránh đi. Gặp kẻ đánh nhau cãi nhau, cũng nên tránh xa, không được dừng ngó * Phàm gặp nước hố, nước lỡ, không được nhảy qua; có đường khác thì nên đi vòng quanh, không có đường khác mà mọi người cùng nhảy qua thì được * Không được về chùa khoa trương những sự kỳ lạ đã thấy.
Thị Vật Đệ Nhị Thập Nhất
(Thứ 21, Mua Đồ)
(60) Vật tranh quí tiện. Nhược vi nhân sở phạm, phương tiện t?hi, vật tùng cầu trị. Dĩ hứa giáp vật, tuy phục cánh tiện, vật xả bỉ thủ thử, linh chủ hữu hận * Thận vật bảo nhậm trí khiên phụ.
Đừng tranh đắt rẻ. Nếu bị người xúc phạm thì phương tiện tránh đi, đừng theo mà mưu cầu giá rẻ. Đã hứa mua vật của ai, thì dẫu vật của người khác rẻ hơn, cũng đừng bỏ vật ấy lấy vật này, làm cho chủ vật ấy tức giận * Thận trọng, đừng bảo lãnh kẻo dẫn đến lỡ lầm và mắc nợ.
Phàm Sở Thi Hành Bất Đắc Tự Dụng Đệ Nhị Thập Nhị
(Thứ 22, Làm Gì Cũng Không Được Tự Ý)
(61) Xuất nhập hành lai, đương tiên bạch sư. Tác tân pháp y, đương tiên bạch sư; trước tân pháp y, đương tiên bạch sư. Thế đầu, đương tiên bạch sư. Tật bịnh phục dược, đương tiên bạch sư. Tác chúng tăng sự, đương tiên bạch sư. Dục hữu tư cụ chỉ bút chi loại, đương tiên bạch sư. Nhược phúng kinh khởi, đương tiên bạch sư *
Ra vào đi về, phải bạch thầy trước. Sắm pháp y mới, phải bạch thầy trước; mặc pháp y mới, phải bạch thầy trước. Cạo đầu, phải bạch thầy trước. Tật bịnh uống thuốc, phải bạch thầy trước. Làm việc tăng chúng, phải bạch thầy trước. Muốn có đồ riêng thuộc loại giấy bút, phải bạch thầy trước. Tụng kinh tán kệ, phải bạch thầy trước *
(62) Nhược nhân dĩ vật huệ kỷ, đương tiên bạch sư, sư hứa thọ phương thọ; kỷ dục dĩ vật huệ nhân, đương tiên bạch sư, sư thính phương tống. Nhân tùng kỷ tá vật, đương tiên bạch sư, sư thính phương dữ ; kỷ dục tá nhân vật, đương tiên bạch sư, sư thính phương tá * Bạch, sư thính bất thính, giai đương tác lễ. Bất thính, bất đắc hữu hận ý * Bất đắc lập môn vọng thị, cập dĩ chỉ sáp khẩu trung.
Ai đem đồ cho mình, phải bạch thầy trước, thầy cho nhận mới nhận; mình đem đồ cho ai, phải bạch thầy trước, thầy chấp thuận mới cho. Ai mượn đồ, phải bạch thầy trước, thầy chấp thuận mới cho mượn ; mình mượn đồ của ai, phải bạch thầy trước, thầy chấp thuận mới mượn * Bạch thầy, thầy chấp thuận hay không chấp thuận, đều phải làm lễ. Thầy không chấp thuận, không được có ý giận hờn * Không được đứng nơi cửa mà trông ngắm, và lấy ngón tay cắm vào trong miệng.
24 OAI NGHI CỦA NGƯỜI XUẤT GIA
Oai nghi – Con đường của sự tỉnh thức (Phần 24): Danh và Tướng của Y bát
Danh Và Tướng Của Y Bát
Sa Di Học Xứ ghi:
“Sao gọi là y? Y nghĩa là y này dùng để che lạnh.”
Trong quyển Y Kiền Độ có ghi:
“Một hôm Phật thấy các thầy Tỳ-kheo đi trên đường mang rất nhiều vật y, thì Thế Tôn mới suy nghĩ như thế này: Có thể vì các thầy Tỳ-kheo mà chế y nhiều hay ít, chẳng được chứa nhiều.”
Trong Lục quần Tỳ kheo có thầy Tỳ-kheo tên Ca-lưu-đà-di, ông đi đến một nước khác được cúng y rất nhiều, trong kinh diễn tả một hôm Phật thấy ông vác trên vai hai chục lá y đủ màu. Đây mình thấy cũng là Đại Bồ-tát thị hiện ra để cho Phật chế giới.
“Bấy giờ vào lúc đầu hôm Thế Tôn đắp một y, đến giữa đêm biết có lạnh liền đắp y thứ hai, rồi đến cuối đêm lại biết lạnh nên đắp y thứ ba liền an ổn mà trụ. Bấy giờ Phật bảo các thầy Tỷ-kheo: Các đệ tử lắng nghe, thọ trì ba y chẳng được cất chứa nhiều.”
Sau này quý thầy thọ giới Tỳ-kheo thì lúc nào cũng phải có ba y bên mình.
Trong Trí Độ Luận có ghi:
“Bạch y cầu khoái lạc nên cất chứa mỗi mỗi áo, ngoại đạo khổ hạnh nên lõa hình không có tàm quý. Cho nên đệ tử Phật xả bỏ hai bên, đi con đường trung đạo, thiểu dục tri túc, chỉ cất chứa ba y.”
Trong Trí Độ Luận, Bồ-tát Long Thọ có nói, hàng cư sĩ bạch y thì áo quần rất nhiều bởi vì cầu khoái lạc. Ngoại đạo khổ hạnh, ở Ấn Độ bây giờ vẫn còn một nhóm Ni-kiền-tử lõa hình đi xuống phố khất thực, không biết tàm quý. Nhưng đệ tử Phật xả bỏ hai bên, đi con đường trung đạo, thiểu dục tri túc chỉ cất chứa ba y.
“Y Ngũ điều theo tiếng nói cõi trời Phạm thiên kêu là An-đà-hội, còn tiếng Hán gọi là Trung túc y.”
Sa Di Học Xứ ghi, trong Tăng Kỳ Luật có nói:
“Phật ở tại thành Xá Vệ, kinh hành trước hang đá Đế Thích, thấy ruộng lúa phân minh mới dạy bảo A-nan rằng: Chư Phật quá khứ tướng y như thế, từ nay nương đây mà chế tác ba y. Đệ tử các Đức Phật quá khứ đắp y như thế, đệ tử Chư Phật vị lai cũng đắp y như thế, như ta ngày nay dùng dao cắt rọc thành y Sa-môn chẳng bị oán tặc cướp đoạt, đây là Giải thoát phục, đây là y Phước điền.”
Mới thọ giới Sa-di thì không có ruộng, không có ô ngăn, chỉ là y trơn thôi. Nhưng sau này, quý thầy thọ giới Tỳ-kheo rồi, thì đắp y Ngũ điều, nó có ô giống như ô ruộng, Phật gọi y này là y Giải thoát, hay là y Phước điền. Quý thầy muốn gieo giống mà có lúa thì quý thầy phải xuống ruộng. Chúng sanh muốn gieo giống mà có nhân duyên với Phật pháp thì họ gieo ruộng phước vào Chư Tăng. Y Phước điền đây, nếu người nào bỏ tiền của cúng dường đại chúng, cúng dường Chư Tăng thì giống như gieo ruộng phước. Ruộng này bão lụt, sóng thần cũng không mất.
Khi ông Cấp Cô Độc nằm trên giường bệnh sắp qua đời, Tôn giả Xá-lợi-phất kêu ông nhìn lên trời. Ông nhìn lên thấy sáu cung điện hiện ra. Ngài Xá-lợi-phất nói, chỉ có cung điện thứ sáu ở cõi trời Đâu Suất là có Phật pháp, còn năm cung điện kia không có. Ngài hỏi ông chọn cung điện nào? Ông Cấp Cô Độc chọn cung điện có Phật pháp. Năm cung điện kia biến mất, còn một cung điện duy nhất. Trong kinh diễn tả ông vừa chết tức khắc tái sanh lên cung trời Đâu Suất. Đêm đó, ông xuống hầu Phật, mà ánh sáng chiếu diệu tỏa sáng hơn các chư thiên khác, Tôn giả A-nan ngạc nhiên nói:
– Bạch Đức Thế Tôn! Hồi đầu hôm có vị chư thiên nào đến mà ánh sáng tỏa diệu hơn hẳn những chư thiên khác?
Phật nói:
– Ông không biết sao? Đó là ông Cấp Cô Độc, chết rồi sanh lên cõi trời Đâu Suất, bây giờ xuống thăm ta.
Ông đã gieo ruộng phước rất thù thắng, mà gieo ruộng phước thì khi chết ứng hiện ra liền. Nên ở đây, nói y này, gọi là y giải thoát mà cũng gọi là y phước điền.
Truyện Ngạ quỷ Huyễn Sự có ghi:
Vào thời Đức Phật có hai vợ chồng sống với nhau. Người chồng thích bố thí, nhờ năng lực bố thí đó, nên sau khi chết ông tái sanh làm Thọ thần có đại oai lực. Người vợ thì có tâm bỏn xẻn, mỗi lần ông bố thí bà hay nguyền rủa: “Cầu cho thức ăn này biến thành phẩn, mủ và máu”. Do ác nghiệp như thế, nên bà chết tái sanh trong loài ngạ quỷ, thức ăn bà ăn toàn là phẩn, máu và mủ. Một hôm Tôn giả Mục-kiền-liên thấy thế mới hỏi Thọ thần:
Nàng ta ăn toàn phẩn,
Nước tiểu, mủ và máu,
Đây là quả nghiệp nào?
Nghiệp gì nàng đã làm,
Khiến nàng luôn luôn ăn
Những khối máu và mủ?
Những y phục mới mẻ,
Xinh đẹp và mềm mại,
Sạch bóng và như tơ,
Nhưng khi cho đến nàng
Thì như những tấm sắt,
Người đàn bà này đã
Làm những ác nghiệp gì?
Thọ thần trả lời Ngài Mục-kiền-liên:
Nàng là vợ của tôi,
Bất nhân và keo kiệt.
Khi tôi kính cúng dường
Đến những vị Sa-môn,
Bà ta lăng mạ tôi,
Bà ta chửi mắng tôi.
Phẩn nhơ và nước tiểu,
Cùng với máu và mủ,
Cầu cho ông luôn luôn
Ăn cái gì nhơ uế.
Cầu cho điều này hãy,
Là số phận của ông
Ở trong kiếp sống sau.
Và áo quần của ông,
Hãy thành những tấm sắt.
Khi có các hạnh ấy,
Bà ta đã đến đây,
Để phải ăn đồ nhơ,
Trong một thời gian dài.
Hai vợ chồng, một người thì siêng năng bố thí cúng dường ruộng phước cho Chư Tăng, ngược lại một người thì rất keo kiệt. Mỗi lần ông chồng cúng dường bố thí, thì bà chửi mắng, nguyền rủa, nên bà tái sanh vào trong loài ngạ quỷ, ăn phẩn nhơ và nước tiểu.
Thấy huynh đệ cúng dường Chư Tăng, mình không có tiền thì tùy hỉ theo. Nếu mình nổi tâm tật đố ích kỷ và nguyền rủa: Ông đó mà cúng dường gì…, tâm tác ý tạo thành nghiệp, từ cái nghiệp chiêu cảm.
Trong Tứ Phần Luật có ghi:
“Ba đời Như Lai đều đắp y này, nếu có chúng sanh khởi một tâm ác hướng đến ba đời Chư Phật, Bích Chi, La Hán và người đắp y vô nhiễm thì gặt hái vô lượng tội lỗi. Vì cớ sao? Vì y hoại sắc là tiêu biểu của Thánh hiền, nếu hay phát tâm kính người đắp y vô nhiễm thì gặt hái vô lượng phước đức.”
Ba đời Như Lai, nghĩa là quá khứ, hiện tại và vị lai, các ngài thị hiện trong cõi đời đều đắp y này. Lúc lên thỉnh nguyện hay tụng kinh, khi đã đắp y, bảo đảm quý thầy không dám khởi một niệm ác. Không khởi niệm ác thì cái y đó là vô nhiễm – không nhiễm những tạp niệm. Khởi một niệm xấu ác đến người đắp y thì gặt hái vô lượng tội lỗi.
Kinh Bi Hoa ghi:
“Như Lai phát đại nguyện ở chỗ Phật Bảo Tạng, ngài phát nguyện rằng: Lúc thành Phật áo cà-sa của ta chắc chắn sẽ có năm công đức thù thắng.”
Lúc còn hành Bồ-tát đạo, Đức Phật Thích-ca ở trước Phật Bảo Tạng phát lời nguyện lớn: Khi ngài thành Phật, áo cà-sa của ngài sẽ có năm công đức thù thắng:
1– Đã vào trong pháp của ta thì tứ chúng dầu là có phạm giới nặng hoặc có tà kiến đi chăng nữa, chỉ cần trong một niệm biết kính tín Tam bảo, tôn trọng cái y thì ta cũng nhất định thọ ký cho về tam thừa.
Tam thừa là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ-tát thừa. Quý thầy đủ phúc duyên cạo tóc, mặc áo nhuộm, nhưng nếu chán cảnh tùng lâm không muốn tu nữa, tôi khuyên quý thầy một điều, ráng thọ giới cụ túc xong rồi tính. Quý thầy nghiên cứu trong Kinh, Luật, Sa-di chỉ là đi theo các hàng thầy Tỳ-kheo thôi chứ chưa có công đức và năng lực gì hết. Cạo tóc, đắp y Sa-di mà không có tâm tu hành, chán nản ra đời thì gieo cái duyên rất mỏng, rất ít. Vì vậy làm gì làm, quý thầy phải đắp cái y Tỳ-kheo lên rồi tính tiếp. Tôi quen huynh đệ rất nhiều, có những người còn Sa-di hoàn tục ra đời thì người đó vĩnh viễn không bao giờ có thể bước vào trong đạo nữa. Nhưng có những người thọ giới Tỳ-kheo, thọ buổi sáng, buổi chiều ra đời, sau một thời gian họ quay lại. Đó là năng lực, công đức mà Đức Phật Thích-ca lúc hành Bồ-tát đạo đã phát nguyện. Khi phát lời nguyện đó tâm ngài thanh tịnh, hạt giống đó ứng tác vào, phổ vào cái y. Nên phải ráng thọ giới, đắp được y Ngũ điều rồi tính tiếp.
Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 47 có ghi:
Đề-bà-đạt-đa phạm tội ngũ nghịch, làm thân Phật chảy máu, có tà kiến là xúi vua A-xà-thế giết cha, xô đá đè Phật, thả voi say, giết chết Tỳ-kheo Ni chứng A-la-hán. Trong lúc ông thả voi say, có một Tỳ-kheo Ni nói với Đề-bà-đạt-đa: “Ông ác lắm, ông dám thả voi say, rồi xô đá đè Phật.” Ông nổi giận đấm vị Tỳ-kheo Ni đã chứng quả A-la-hán này ngã xuống chết tại chỗ.
Khi ông chuẩn bị sám hối Phật, thì đất rút ông xuống, ông chết đọa địa ngục rất là khổ. Lúc này Tôn giả A-nan, là em ruột của Đề-bà-đạt-đa, thương anh mình quá nên đến khóc với Phật, ngài hỏi Phật khi Đề-bà-đạt-đa ra khỏi địa ngục sẽ sanh về đâu. Phật nói:
– Nhờ năng lực đắp y ca-sa của Phật, trong lúc rớt xuống cõi địa ngục tự nhiên ông phát tín tâm hướng về Đức Phật nói “Nam-mô.”
Ông chỉ nói được hai chữ Nam-mô, thì bị đất rút rồi, nên không nói được gì thêm. Do năng lực ông phát niệm kính tâm, tôn trọng Tam bảo, nên sau khi ở cõi địa ngục xong, ông sanh lên cõi Trời Tứ Thiên Vương. A-nan lại hỏi, sau khi mạng chung ở cõi Trời này lại sanh về đâu, Phật nói:
– Sau khi mạng chung ở đó, ông lần lượt sanh lên cõi Trời Tam Thập Tam, Trời Diệm Thiên, Trời Đâu Suất, trời Hóa Tự Tại, trời Tha Hóa Tự Tại.
Phật bảo A-nan:
– Đề-bà-đạt-đa từ địa ngục sanh vào cõi lành, sanh lên trời, trải qua sáu mươi mốt kiếp không rơi vào ba đường dữ, qua lại cõi trời, cõi người. Đến thân cuối cùng thì sẽ cạo bỏ râu tóc, khoác ba y với trí tín kiên cố, xuất gia học đạo thành Bích Chi Phật hiệu là Nam Mô.
Nhờ năng lực đắp y cà-sa của Phật mà dù phạm tội ngũ nghịch (đã làm thân Phật ra máu và giết A-la-hán), bị đọa địa ngục chỉ có một lần, rồi tái sanh về những cảnh giới nhàn cảnh, sau này xuất gia học đạo thành vị Bích Chi Phật.
Phật bảo A-nan:
– Tâm ý thiện trong khoảnh khắc búng ngón tay mà phước ấy khó có thể ví dụ, huống hồ Đề-bà-đạt-đa thông kim bác cổ, tụng tập rất nhiều, ghi nhớ tổng trì các pháp, điều gì đã nghe rồi thì không quên. Lại trước khi mạng chung đã khởi tâm vui vẻ Nam-mô Phật, vì thế sau này thành hiệu Bích Chi Phật hiệu là Nam Mô.
2– Trời, rồng, người, quỷ nếu biết cung kính một phần nhỏ chiếc áo cà-sa của người này thì lập tức sẽ chứng được đạo tam thừa và chẳng bị thối chuyển.
Bà Liên Hoa Sắc trong thời quá khứ làm kỹ nữ. Một hôm bà đi ngang qua Tinh xá, thấy cái y của Tỳ-kheo Ni bà đắp vào. Bà đi ba vòng Tinh xá phát nguyện, sau này gặp Phật tu chứng được Thánh quả. Bà chỉ phát nguyện chơi thôi nhưng mà thành sự thật. Nên ở đây nói, chỉ có tâm cung kính một phần nhỏ chiếc áo cà-sa thôi, cũng được chứng đạo quả tam thừa.
3– Nếu có quỷ thần các người nào đó mà được áo cà-sa, dù chỉ được bốn tấc đi nữa thì sẽ được ăn uống sung túc.
Ở Sông Bé có cả một xóm người ăn xin mướn y bát, rồi cạo tóc đắp y đi vòng vòng. Vậy mà cũng sung túc, người ta cúng dường ăn đầy đủ!
Vào thời Đức Phật có Tỳ-kheo Thất Lai, ông ra đường thấy làm thầy Tỳ-kheo sao dễ quá, được người cung kính cúng dường. Ông phát tâm xuất gia, sau đó hoàn tục rồi lại xuất gia, vào ra tới bảy lần. Ở đây, ý nói dầu cho một người tu hành như thế nào không biết, nhưng chỉ cần đắp y cà-sa của Phật thì Phật thọ ký cũng được ăn uống đầy đủ. Nghiệp quả sau này mình phạm giới thì gánh chịu, nhưng hiện thời vẫn có thức ăn, thức uống đầy đủ.
4– Nếu chúng sanh đều cùng nhau vi phạm, chống lại, thì niệm cà-sa lực ít lâu cũng sẽ nảy sanh tâm từ bi xót thương họ.
5– Ở chỗ binh đao trận mạc chỉ cần giữ một phần nhỏ của áo cà-sa, cung kính tôn trọng thì sẽ luôn luôn được thắng địch.
Nếu áo cà-sa của ta mà không có năm lực này thì là dối Chư Phật mười phương.
Ở chỗ binh đao trận mạc không phải chỉ cho quốc gia này hay quốc gia kia, mà khi gặp nghịch cảnh khốn cùng thì hãy luôn nhớ nghĩ đến áo cà-sa. Sau này đi làm Phật sự đến nhà tín thí nữ, lúc nói chuyện, quý thầy nhớ mặc áo hậu, và trong đãy phải có một tấm y cà-sa chín điều để kế bên. Khi đó người đối diện với quý thầy, họ không khởi tà niệm, mà chính quý thầy cũng không dám khởi niệm tà luôn, thì đúng nghĩa này, đúng với nghĩa lúc vào trận mạc chỉ cần giữ một phần nhỏ áo cà-sa, cung kính tôn trọng thì sẽ luôn luôn thắng quân địch.
“Khi đắp y đọc bài kệ:
Lành thay áo Giải thoát,
Y Vô thượng phước điền,
Ta nay đầu đội chịu,
Đời đời chẳng bỏ rời.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nghĩa là tán thán công đức của y bất khả tư nghì, mở niêm, tháo chốt nên nói là giải thoát. Nghĩa là sanh tử phiền não do sự giải thoát này.”
Vô Thượng Luận Tát Bà Đa nói:
“Y này là chín mươi lăm thứ ngoại đạo thảy chẳng biết tên, chỉ có Như Lai khai thị vị tằng hữu pháp này nên nói là Vô thượng.”
Chín mươi lăm thứ ngoại đạo không biết tên y này, chỉ có Như Lai khai thị cho mình một cái pháp vị tằng hữu cho nên gọi là Vô thượng.
“Y này cũng gọi là Y Liên Hoa, vì mặc y này khỏi bị bùn ngũ dục nhơ nhiễm.”
Mặc y này rồi, mình phải phát nguyện đời đời kiếp kiếp luôn gặp được y này để khỏi bị ngũ dục làm nhơ nhiễm.
“Y này cũng gọi là Y Cứu Long vì loài rồng được một sợi chỉ của y này khỏi bị chim đại bàng cánh vàng bắt ăn.”
Trong kinh diễn tả, có những con rồng bị chim đại bàng cánh vàng bắt ăn nên cầu cứu Đức Phật. Đức Phật cho một tấm y rồi cắt ra từng miếng nhỏ, treo lên thân thì không bị chim đại bàng cánh vàng bắt ăn thịt. Ý nghĩa sâu hơn: Mình muốn không bị chim bắt, tức là phải tiêu trừ tập khí. Thiền sư Lai Quả nhấn mạnh chỗ này, một người mặc y Ngũ điều rồi, thì phải luôn luôn phát nguyện đời đời được mặc cái y này.
“Y Thất điều theo tiếng cõi trời Phạm thiên gọi là y Uất-đa-la-tăng, tiếng Hán gọi là Thượng Trước y, cũng gọi là y Nhập Chúng. Phàm lạy Phật, sám hối, tụng kinh, ngồi thiền, đi chứng trai, đi nghe kinh, ngày Bố tát, ngày Tự tứ phải mặc y này.”
“Khi đắp y đọc bài kệ:
Lành thay áo giải thoát
Y Phước điền Vô thượng
Con nay đầu đội chịu,
Đời đời hằng được đắp.”
Trong Luận Đại Trí Độ, Bồ-tát Long Thọ nói, có người hỏi:
– Nếu giới tại gia được sanh lên cõi trời, được Bồ-tát đạo, cũng được Niết-bàn thì còn cần gì đến giới xuất gia?
Bồ-tát đáp:
– Tuy cùng đắc độ nhưng có khó dễ khác nhau. Tại gia bị các nghiệp sanh kế, nếu muốn chuyên tâm vào đạo pháp thời gia nghiệp bị bỏ phế. Nếu muốn chuyên lo gia nghiệp thời đạo nghiệp phải bỏ phế. Không lấy không bỏ mới là cách đáng nên làm, ấy gọi là khó. Nếu xuất gia lìa tục dứt các lỗi một bề chuyên tâm hành đạo tức là dễ.
Vì vậy, mình phải phát nguyện đời đời kiếp kiếp sanh ra đều được đắp y này.
– Do vậy nên biết xuất gia tu giới, hành đạo là dễ. Lại nữa xuất gia tu giới được vô lượng thiện lực, nghi, tất cả được đầy đủ. Vì vậy hàng áo trắng nên xuất gia thọ giới.
Bồ-tát Long Thọ khuyên mình phải xuất gia, thọ giới, đắp y thì mới được thù thắng viên mãn.
– Lại nữa trong Phật pháp, xuất gia pháp là khó tu nhất. Như Phạm Chí Diêm Phù Khưu Đề hỏi Xá-lợi-phất:
– Trong Phật pháp, việc gì là khó nhất?
Xá-lợi-phất đáp:
– Xuất gia là khó.
Lại hỏi:
– Xuất gia khó gì?
Đáp:
– Xuất gia vui thích pháp là khó.
Cái khó thứ nhất của xuất gia là vui thích nghe chánh pháp. Vui thích nghe chánh pháp không phải chuyện đơn giản. Có những người không thích đọc kinh, xem sách, nghe chánh pháp mà tìm thú vui khác. Nếu có nghe thì họ cũng ngủ gục. Mình được túc duyên xuất gia, lại ham thích nghe chánh pháp thì điều này rất hiếm.
– Đã được vui thích nghe pháp còn có gì khó?
Ngài đáp:
– Tu các thiện pháp là khó, vì vậy nên cần xuất gia.
Mình được phúc duyên vào tùng lâm làm các việc thiện pháp. Hành đường, trị nhật, chẻ củi cũng là thiện pháp, làm được vậy không phải là chuyện đơn giản. Có một năng lực, hạt giống trong thời quá khứ nên ngày hôm nay mình mới thích và vui làm. Nên ngài nói, tu các thiện pháp là khó.
– Lại nữa, nếu người khi xuất gia thì ma vương kinh hãi, nghi rằng người này các kiết sử sắp mỏng, chắc chứng được Niết-bàn đứng vào số Tăng bảo. Lại nữa, trong Phật pháp, người xuất gia tuy hủy phá giới, đọa vào chỗ tội, mà khi tội hết được giải thoát.
Trong Phật pháp người xuất gia tuy hủy phá giới tức là phạm ba-la-di: sát sanh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, phạm những tội đó bị đọa vào địa ngục mà khi tội hết, được giải thoát.
Như trong Kinh Uất-bát-la-hoa, Tỳ-kheo Ni Bổn Sanh nói:
Lúc Phật còn tại thế Tỳ-kheo Ni này chứng được A-la-hán, đủ sáu thần thông, đi vào nhà quí nhơn thường khen ngợi pháp xuất gia, nói với phụ nữ rằng:
– Chị em nên xuất gia.
Các phụ nữ quí nhơn nói:
– Chúng tôi tráng kiện, dung sắc đầy đủ, tốt đẹp, giữ giới rất khó hoặc sẽ phải phá giới.
Tỳ-kheo Ni nói:
– Chỉ cần xuất gia, phá giới thì phá.
Hỏi:
– Phá giới sẽ bị đọa địa ngục, làm sao dám phá được.
Đáp:
– Đọa địa ngục thì đọa.
Các phụ nữ quí nhơn đều cười rằng:
– Ở địa ngục chịu tội rất là khổ làm sao dám.
Tỳ-kheo Ni nói:
– Tôi tự nhớ thân kiếp trước là con gái làm trò, có lúc mặc áo Tỳ-kheo Ni để làm trò cười.
Do nhân duyên ấy, vào thời Đức Phật Ca-diếp cô làm Tỳ-kheo Ni, rồi ỷ mình dòng họ cao quý sanh tâm kiêu mạn phá cấm giới của Phật, bị đọa địa ngục chịu vô lượng tội. Do được phúc duyên đắp y cà-sa vào thời Đức Phật Ca-diếp, nên đời này cô gặp Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, xuất gia chứng quả vị A-la-hán.
Nên bà mới nói: “Tuy phá giới và do giới nhân duyên nên được chứng đạo quả A-la-hán.”
Mình được phúc duyên xuất gia tu đạo, nếu lỡ phạm giới, chẳng hạn như phạm giới ba-la-di chắc chắn đọa địa ngục. Hết tội địa ngục, lên rồi đi tu, thì chứng quả.
Một câu chuyện nữa:
Ở tại Kỳ Hoàn, có một vị Bà-la-môn say rượu đến xin Phật làm Tỳ-kheo, Phật liền sai A-nan cạo tóc. Khi tỉnh rượu, vị Bà-la-môn thấy mình đầu trọc lại mặc áo cà-sa nên ông la chửi. Tôn giả A-nan đến bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, tại sao vị Bà-la-môn này say rượu mà Phật lại cho làm Tỳ-kheo.
Phật dạy:
– Vị Bà-la-môn này trong vô lượng kiếp không hề có một niệm xuất gia, nay nhân say rượu nên mới tạm thời phát tâm chút ít.
Chỉ cần khởi một niệm xuất gia, được cạo tóc rồi, thì do nhân duyên này, trong thời vị lai gặp các bậc Thánh ra đời, ông tu tập chứng được đạo quả.
Quý thầy dám cho người say rượu xuất gia không? Chỉ năng lực của Phật mới thấy được tâm niệm và thọ ký cho họ. Sau này, họ xuất gia đắc đạo cũng do nhân duyên đó.
Nên lúc đắp y, mình phát nguyện đời đời hằng được đắp y ca-sa này. Mình được phúc duyên xuất gia học pháp với Hòa thượng, dù trong tùng lâm cũng có chuyện này chuyện nọ, nhưng nghiệm lại cũng an ổn hơn người thế tục. Các chuyện gia đình, làng xóm không còn làm phiền nhiễu nữa.
Trong Giới Đàn Kinh có ba nghĩa:
1– Mặc y ngũ điều dứt tâm tham của thân nghiệp và chứng Ngũ phần pháp thân hương.
Nhưng có nhiều người đắp y bảy, y chín rồi mà có dứt đâu. Nghĩa ở đây rất sâu. Trong Kinh Phật dạy:
“Chúng sanh lòng tham không có bờ bến, giống như uống nước biển, càng uống càng khát.”
Lòng tham này là tham cho cái gì? Quý thầy nghiệm kỹ đi, chẳng hạn các nước trên thế giới họ tranh đấu để làm gì? Cũng chỉ là ăn, mặc, ngủ nghỉ, bồ đắp cho cái thân ngũ uẩn này thôi, không có gì khác. Tại sao nói mặc y ngũ điều dứt tâm tham của thân nghiệp? Ở đây, không nằm trên sự nữa mà đi vào phần lý rất sâu: Mặc y ngũ điều là phải đi đến tinh thần quán chiếu: Mang cái thân nghiệp ngũ uẩn này, là luôn luôn mình tham chấp tham đắm. Nên nói mặc y ngũ điều dứt tâm tham của thân nghiệp.
Ngài A-na-luật đã chứng thiên nhãn đệ nhất, một hôm ngài nhìn xuống cõi địa ngục thấy người nữ rất nhiều, ngạc nhiên ngài đến bạch với Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn! Những vị nữ tín thí bố thí rất nhiều, cúng dường rất nhiều, đi nghe pháp cũng nhiều hơn người nam nhưng tại sao người nữ lại đọa địa ngục nhiều như thế?
Phật nói người nữ đọa vào địa ngục có ba nguyên nhân chính:
– Buổi sáng họ khởi niệm mong muốn của cải toàn thế giới, vũ trụ này về cho một mình họ hưởng.
Tức là dấy niệm tham. Dấy niệm tham là ngay trong giờ phút thực tại đó đi vào lục đạo rồi. Giữ tâm như thế thì cận tử nghiệp chắc chắn họ phải rơi vào đường ác. Nhìn cha mẹ mình là biết, tội người mẹ lắm, trong gia đình người mẹ luôn mong muốn của cải về cho con mình, có khi còn tạo ác nữa.
– Buổi trưa dấy niệm tật đố.
Thấy con người ta đỗ đạt, hạnh phúc họ chịu không nổi.
– Buổi chiều lại dấy niệm tham dục, mong muốn hết tất cả mọi người đến với mình thôi, đừng đến ai.
Mình đủ phúc duyên mặc y ngũ điều mình phải quán chiếu để phá tan ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Nếu muốn dứt lòng tham phải quán chiếu, thực hành sâu. Năm uẩn là tiêu biểu cho ngũ điều. Tức là dùng Ngũ phần pháp thân hương.
Mình đừng nghĩ Bồ-tát Quán Tự Tại là Bồ-tát Quán Thế Âm. Bồ-tát Quán Tự Tại đây là đòi hỏi người hành giả phải luôn luôn an trú trong giờ phút thực tại. Khi hành sâu Bát-nhã ba-la-mật rồi, Ngài chiếu kiến ngũ uẩn đều không, liền qua hết khổ nạn. Khi đắp y ngũ điều, mình phải luôn luôn quán chiếu. Hành sâu là phải hành liên tục, không xen tạp một niệm nào hết, thì lúc này dù đi làm việc quý thầy cũng như đang mặc y ngũ điều. Còn mặc y ngũ điều, mà mình có tâm tạp niệm, thì chưa phải là mặc y ngũ điều.
Thiền thoại có ghi:
Ngài Tăng Triệu sắp bị vua chém đầu, ngài xin hoãn bảy ngày để làm một bộ luận, gọi là Triệu Luận, tức là luận của ngài Tăng Triệu.
Trước khi bị chém đầu ngài làm một bài kệ:
Ngũ ấm nguyên phi hữu,
Tứ đại bổn lai không.
Tương đầu lâm bạch nhẫn,
Nhứt tợ trảm xuân phong.
Nghĩa là:
Năm ấm vốn chẳng có,
Bốn đại xưa nay không.
Kê đầu kề gươm bén,
Dường như chém gió xuân.
Sắp bị chém đầu mà ngài xin hoãn bảy ngày để viết bộ luận, như vậy ngài đã quán chiếu thành tựu, nghĩa là ngài luôn luôn đắp y Ngũ điều. Nhờ đắp y Ngũ điều ngài thấy được năm uẩn, bốn đại đều không.
Chư Phật, Tổ luôn luôn dạy mình đắp y Ngũ điều. Trong lúc đắp y Ngũ điều, quý thầy phải phát tâm nguyện lớn đi vào cuộc đời này.
2– Mặc y Thất điều dứt tâm sân của khẩu nghiệp.
3– Mặc Đại y là dứt cái tâm si của ý nghiệp.
“Đắp y hai mươi lăm điều đọc bài kệ:
Lành thay áo Giải thoát
Phước điền y vô thượng
Ta nay đầu đội chịu
Rộng độ các quần mê.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Hai bài kệ trước là tự lợi, một bài kệ này chính là lợi tha. Chư Phật đã ngộ nên gọi là đại giác, chúng sanh còn mê nên gọi là quần mê.”
Nghĩa là đắp y này, ngay đó là gánh vác huệ mạng của Như Lai, giáo hóa lợi lạc quần sanh.
Trong Đại Bát-nhã nói:
“Tâm đại bi của Bồ-tát hằng rải trên khắp cả quần sanh, ngài luôn luôn sẵn sàng thực hành từ bi hỉ xả, bình đẳng đối với hết thảy mọi loài.”
Đắp y này rồi, thì các ngài luôn luôn phát tâm hạnh Bồ-tát đi vào cuộc đời này, để mà dìu dắt chúng sanh.
Kinh Tạng Nghĩa nói:
“Cà-sa có mười điều lợi ích lớn:
1– Vì Bồ-đề đạo.
2– Chúng ở cõi nhơn thiên.
3– Cha mẹ trở lại lạy.
Đắp y cà-sa này, thì cha mẹ trở lại lạy mình chớ mình không được lạy cha mẹ nữa. Khi chuẩn bị xuống tóc xuất gia, quý Thầy lớn kêu mình về nhà đảnh lễ cha mẹ. Sau này cha mẹ mất, thì mình cũng không được đứng trước quan tài đảnh lễ, vì giới của mình bây giờ lớn hơn cha mẹ. Mình giữ mười giới hoặc hai trăm năm mươi giới, trong khi cha mẹ chỉ giữ có năm giới thôi.
4– Sư tử bỏ thân.
5– Rồng mang khỏi nạn.
6– Quốc vương kính tín.
7– Chúng sanh lễ bái.
8– Quỷ La-sát cung kính.
9– Trời, rồng ủng hộ.
10– Đắc thành Phật đạo.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Ba y như trên nguyên là Pháp phục của Tỳ-kheo, bậc Sa-di còn không cho mặc huống là người mới phát tâm ư? Nay muốn cho biết trước để đọc kệ chú, trước hiểu hạnh nguyện Bồ-tát thù thắng như vậy.”
Ba y này Sa-di không được mặc, chỉ hàng Tỳ-kheo thọ giới mới được mặc. Nhưng tại sao ở đây Sa-di học? Học để hiểu những hạnh nguyện của Bồ-tát đi vào cuộc đời này, để từ đó quý thầy kính tín Tam bảo.
Đến đây là bài cuối cùng, kết thúc phần Hai Mươi Bốn Oai Nghi.
24 OAI NGHI THI HÓA VIỆT NGỮ
1) Kính thầy
Kính thầy tiếng gọi thân thương
Thầy là bóng mát toả hương cửa thiền
Tiếng thầy toả ấm thanh thiên
Gọi danh bổn tự tất nhiên cũng vì
Thân tâm tươi mát đại bi
Thương người kính vật sân si giả từ
2) Thờ thầy
Phụng vì pháp Phật tam-quy
Sự tình thế sự thịnh suy rõ ràng
Thờ người mở lối đạo-tràng
Thầy hay hướng dẫn an-toàn kiếp tu
3) Theo thầy
Theo thầy học đạo Pháp-vương
Thầy thường hướng dẫn con đường chánh tri
Hành thâm tam-tạng ngay khi
Đạo cao trí sáng tâm bi vào đời
4) Vào đời
Hòa mình toàn thể hàm linh
Nhập vào không-tánh tâm tình an nhiên
Vào trong tính-thể nhân duyên
Đời thêm hương sắc ấm yên đạo đời
5) Tùy duyên
Tùy tâm hỷ cúng muôn loài
Duyên sanh vạn-pháp bản hoài tạng tâm
Bất sanh bất diệt tính âm
Biến cùng pháp-giới duy-tâm tròn đầy
6) Lễ bái
Lễ vì Tam-bảo chứng-minh
Bái cùng Phật tánh chúng-sanh sẳn đồng
Mười phương đồng đẳng trong lòng
Phương Tây Tịnh-độ ở trong mỗi loài
7) Nghe pháp
Nghe về tính-thể chân-thường
Pháp âm vang vọng tình thương độ đời
Thầy hay giảng dạy thật lời
Giảng không không có sáng ngời rõ không
8) Học tập
Học tu thay đổi mẫu đời
Tập làm điều thiện học lời thân thương
Kinh thường trì-tụng bình thường
Điển tài ẩn dụ con đường không hai
9) Tự-viện
Tự thành thiền-viện tòng-lâm
Viện nghiên-cứu lấy chữ tâm đứng đầu
Đào tạo muôn loại thâm sâu
Tạo nên trường-phái hàng đầu kệ thi
10) Thiền-viện
Viện nghiên cứu hạnh Quán-âm
Chủ trì quán tưởng thậm thâm Phật đà
Thiền sư khải-ngộ Ta-bà
Viện yên tâm lặng hằng-sa tỏ lòng
11) Phật-sự
Phật đâu tâm đó no tròn
Sự tình tính mãi không còn thời gian
Đại thành rồi cũng tiêu tan
Đồng thanh xướng tụng an ban lời nguyền
12) Vào nhà tắm
Vào trong lấy nước thinh không
Nhà mình có sẳn chớ trông ở ngoài
Tắm trong tính-thể Như-lai
Gội trong bản-giác không phai sắc màu
13) Vào nhà đại-tiểu
Vào trong không-tánh độc-hành
Nhà cầu trống vắng tâm thành phát sinh
Đại tâm bi-mẫn sanh linh
Tiểu thân buôn bỏ thân mình nhẹ te
14) Nằm ngủ
Nằm dài thể-nhập chân-như
Ngủ quên hay thức thật hư vẫn là
Nghiêng bên mặt như Phật-đà
Phải chăng định-hướng ngôi nhà Như-lai
15) Vây quanh
Vây bao toàn cảnh sạch trong
Quanh mình muôn thuở như chông ánh đèn
Bếp hồng rực rở màu sen
Lò cho cho mãi trắng đen một màu
16) Phòng ngủ
Phòng chi chổ ở đàng hoàng
Ngủ hoài thân bệnh tâm càn tối ôm
Đơn phòng cô-độc chiều hôm
Giản tiện thanh-thoát như ôm bầu trời
17) Đến viếng chùa ni
Đến đâu cũng vẫn đạo-tràng
Viếng thăm thắng cảnh trang hoàng khéo tay
Chùa nào cũng sẳn Như-lai
Ni-sư đúng nghĩa không hai danh-từ
18) Thăm nhà Phật-tử
Thăm dò đạo-hạnh gần xa
Nhà trong ngọc sẵn hỏi ra vẫn còn
Phật đâu tâm đó sắc-son
Tử-sanh huyển-ảo chỉ còn gắng tu
19) Khất thực
Khất hành độ tận hàm linh
Thực thi gíáo pháp cứu tinh cõi đời
Nuôi dưỡng kiên-nhẫn trong ngời
Thân an tâm tịnh không lời lặng yên
20) Vào chổ đông người
Vào trong pháp-giới đại đồng
Chổ nào cũng có sen hồng ngọc châu
Đông-tây-nam-bắc gồm thâu
Người trong không tánh lo âu làm gì
21) Mua đồ ngoài khố
Mua đi bán lại mãi à
Đồ chơi đáng giá cũng là giả thôi
Ngoài ra ngọc thật sẳn rồi
Phố phường vui nhộn đãi bôi mãi à
22) Ân-sư nghĩa-trọng
Ân thầy trọn kiếp khắc ghi
Sư thầy kính trọng ít khi lơ là
Nghĩa tình còn ở Ta-bà
Trọng nhau chân thật hằng sa tấm lòng
23) Tham học phương xa
Tham thiền cầu học nơi xa
Học nghe học nghĩ tính ra cả đời
Phương trời cao rộng tuyệt-vời
Xa gần tíc-tắc sáng ngời tại gia
24) Cơm ăn áo mặc
Cơm ăn hai bửa no lòng
Ăn cơm hai bửa sạch trong nhẹ nhàn
Áo y gọn ghẻ đàng hoàng
Mặc y pháp-phục an toàn thích nghi
“Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”